Nguyễn Văn Đông (sinh 1932), bút danh Phượng Linh, Phương Hà, Vì Dân và Đông Phương Tử, là một nhạc sĩ của dòng nhạc tình ca Việt Nam. Ông là tác giả của nhiều ca khúc tân nhạc nổi tiếng như Chiều mưa biên giới, Hải ngoại thương ca, Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp. Ngoài ra ông còn là soạn giả của một số tuồng cải lương thịnh hành như Tiếng hạc trong trăng, Nửa đời hương phấn.
Ông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận 1, Sài Gòn nhưng nguyên quán của ông ở Lợi Thuận, Bến Cầu, Tây Ninh. Thuở bé, do điều kiện gia đình, ông học ở nhà dưới sự hướng dẫn của thầy học. Sau ông theo học bậc trung học tại trường Huỳnh Khương Ninh thuộc Đa Kao, Tân Ðịnh, Sài Gòn.
Năm 1945, chính quyền Pháp đóng cửa trường Huỳnh Khương Ninh, với lý do trường có nhiều giáo viên và học sinh hoạt động trong phong trào đòi Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam. Năm 1946, gia đình gửi ông vào trường Thiếu sinh quân Việt Nam ở Vũng Tàu, khi đấy ông mới 14 tuổi.
Thời gian tại trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, ông được học nhạc với các giảng viên âm nhạc của Học viện Âm nhạc Quốc gia Pháp sang giảng dạy. Chỉ sau một thời gian ngắn sau, ông trở thành một thành viên của ban quân nhạc thiếu sinh quân, học cách sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như “Thiếu sinh quân hành khúc”, “Tạm biệt mùa hè”…
Sau khi tốt nghiệp trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, ông nhập ngũ chính thức vào Quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1951, ông được cử theo học khóa 4 trường Võ bị Sĩ quan Vũng Tàu và tốt nghiệp thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy vào năm 1952. Một năm sau, năm 1953, ông được cử đi học khóa huấn luyện “Ðại đội trưởng” tại trường Võ bị Ðà Lạt. Năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa “Tiểu đoàn trưởng” tại trường chiến thuật Hà Nội. Ra trường, ông được chỉ định vào chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn trọng pháo 553, trở thành Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia Việt Nam khi mới 24 tuổi.
Sau Hiệp định Genève, 1954, ông chuyển vào Nam, phục vụ tại Phân khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trung úy Trưởng phòng Hành quân. Thời gian này, ông còn kiêm nhiệm chức Trưởng phòng 3 (Tác chiến) của Phân khu, dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là, tham gia Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu 1956. Bấy giờ, tướng Dương Văn Minh là Tư lệnh chiến dịch, từng đến bắt tay ông tỏ lòng ngưỡng mộ. Bức ảnh chụp tướng Minh bắt tay ông đã được in trên trang nhất của báo Chiến sĩ Cộng hòa. Ông thăng đến chức đại tá trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Nguyễn Văn Đông từng nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc ở Sài Gòn trước 30 tháng 4 năm 1975. Trong thập niên 1950, Nguyễn Văn Đông nổi tiếng khi ông là Truởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với thành phần ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim… Ông đã tổ chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội tại Sài Gòn và khắp các tỉnh của Việt Nam Cộng hòa.
Từ năm 1958, Nguyễn Văn Đông là trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm những danh ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc… Năm sau ông là trưởng ban tổ chức Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc ở cấp quốc gia, đã huy tụ trên 40 đoàn văn nghệ đại diện cho cả miền Nam cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng nhận giải âm nhạc quốc gia, một giải thường do Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân trao tặng.
Nguyễn Văn Đông còn là giám đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca nổi tiếng, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân… Hai cơ sở của ông cho ra đời nhiều chương trình tân nhạc cũng như cổ nhạc gồm các vở tuồng và cải lương. Chính Nguyễn Văn Đông là người đã tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm. Ông đã thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng trong đó có Khánh Ly với băng nhạc Sơn Ca 7, Thái Thanh và ban Thăng Long – Sơn Ca 10, Lệ Thu – Sơn Ca 9, Phương Dung – Sơn Ca 5 và 11, Giao Linh – Sơn Ca 6, Sơn Ca – Sơn Ca 8… và một số album riêng cho Trịnh Công Sơn.
Vì từng trong quân ngũ Nguyễn Văn Đông đã viết nhiều nhạc phẩm về người lính miền Nam thời đó như “Chiều mưa biên giới,” “Phiên gác đêm xuân,” “Mấy dặm sơn khê,” “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp,” “Lá thư người lính”…
Nhạc phẩm “Phiên gác đêm xuân” được Nguyễn Văn Đông viết vào đêm 30 Tết năm 1956 khi ông phải xa nhà, gác phiên ở khu 9 Đồng Tháp Mười. “Chiều mưa biên giới” ra đời năm 1956 và nổi tiếng qua tiếng hát của Trần Văn Trạch. “Chiều mưa biên giới” và “Mấy dặm sơn khê” đã từng gây cho ông nhiều khó khăn khi bị Bộ Thông tin Việt Nam Cộng hòa ra quyết định cấm phổ biến vì lý do phản chiến vào năm 1961. Bài hát “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp” (còn mang tên “Hàng hàng lớp lớp”) nổi tiếng qua tiếng hát của Hà Thanh nhưng thường bị nhầm với nhạc phẩm Khúc tình Kinh Kha của Phạm Duy. Hà Thanh cũng chính là ca sĩ trình bày thành công nhất các nhạc phẩm của ông.
Nguyễn Văn Đông còn có nhiều bút danh khác như Phượng Linh, Phương Hà trên một số nhạc phẩm tình cảm như ‘”Khi đã yêu,” “Thầm kín,” “Niềm đau dĩ vãng,” “Nhớ một chiều xuân”… Với bút danh Đông Phương Tử và Phượng Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng, cải lương nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975 như Nửa đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng…
[sửa]Biến cố 1975 và được công nhận trở lại 29 năm sau
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Đông bị bắt đi học tập cải tạo 10 năm và ngừng sáng tác từ đó. Hiện ông sống trầm lặng tại Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh cùng gia đình.
Tháng 9 năm 2004, Cục Nghệ thuật Biểu diễn thuộc Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam cho phép phổ biến mười bài hát của ông, gồm: “Niềm đau dĩ vãng”, “Về mái nhà xưa”, “Cay đắng tình đời”, “Tình đầu xót xa”, “Vô thường”, “Đom đóm”, “Nhớ một chiều xuân”, “Hải ngoại thương ca”, “Tình cố hương” và “Khúc xuân ca”. Tháng 10 năm 2004, thêm chín ca khúc khác của Nguyễn Văn Đông được tái phổ biến rộng rãi thông qua việc phát hành đĩa nhạc Thác Đa – Tình yêu của tôi, gồm có “Trái tim Việt Nam”, “Bài ca hạnh phúc”, “Người tình yêu dấu”, “Khi đã yêu”, “Thầm kín”, “Núi và gió”, “Nếu có em bên anh”, “Bông hồng cài áo” và “Đồng Tháp duyên gì”
Một số tác phẩm
Nguyễn Văn Đông
Anh
Anh trước, tôi sau
Bà mẹ hai con
Bài ca hạnh phúc
Bông hồng cài áo
Chiều mưa biên giới
Chuyện tình hoa pensée
Cung thương ngày cũ
Dáng xuân xưa
Đêm buồn
Đêm thánh huy hoàng
Đôi bờ thương nhớ
Đồng Tháp duyên gì
Hải ngoại thương ca
Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp
Khúc xuân ca
Lá thư người lính chiến
Màu xanh Noel
Mấy dặm sơn khê
Mùa sao sáng
Ngày mai anh về
Ngày vui pháo nhuộm đường
Người tình yêu dấu
Nếu có em bên anh
Nhớ một chiều xuân
Nhớ người viễn xứ
Núi và gió
Phiên gác đêm xuân
Sắc hoa màu nhớ (kí tên là Vì Dân)
Thu hoài cảm
Tình cố hương
Tình đầu xót xa
Trái tim Việt Nam
Truông mây
Về mái nhà xưa
Vô thường
Xin chúa thấu lòng con
Phượng Linh
Bẽ bàng
Bóng nhỏ giáo đường
Cay đắng tình đời
Chiếc bóng công viên
Cô nữ sinh Gia Long
Dạ sầu
Đoàn chim cánh sắt (Phượng Linh và Ngọc Sơn)
Đom đóm
Đoạn tuyệt
Khi đã yêu
Lời giã biệt
Nỗi buồn duyên kiếp
Niềm đau dĩ vãng
Thầm kín
Thương muộn
Thương về mùa đông biên giới
Tình người ngoại đạo
Xin đừng trách anh
Soạn lời Việt:
Ave Maria (Franz Schubert)
Đêm thánh vô cùng (“Stille Nacht” của Franz Xaver Gruber)
Hồi chuông nửa đêm (“The One Horse Open Sleigh”, tức “Jingle Bells”, của James Pierpont)