Podcast – Chế Linh kể về 4 người vợ, 14 người con
Nam danh ca Chế Linh được xem là một huyền thoại của dòng nhạc vàng, là một trong những ca sĩ đầu tiên hát nhạc vàng phổ thông thịnh hành và được yêu thích cho đến ngày nay. Ông bắt đầu nổi tiếng từ thập niên 1960, sau đó cùng với các ca sĩ – nhạc sĩ Duy Khánh, Hùng Cường và Nhật Trường được xưng tụng là “tứ trụ nhạc vàng”, và trong bộ tứ này hiện nay chỉ còn lại duy nhất ca sĩ Chế Linh, 3 người còn lại đã tạ thế được nhiều năm.
Click để nghe tuyển tập nhạc Chế Linh thu âm trước 1975
Ca sĩ Chế Linh tên thật là Jamlen (Trà – len), là người gốc Chăm tại vùng đất Phan Rang – Ninh Thuận. Ông còn có tên tiếng Việt Là Lưu Văn Liên, sinh ngày 3 tháng 4 năm 1942 trong một gia đình có 3 anh em. Dù gia cảnh khó khăn, cha mất sớm khi mới 4 tuổi, nhưng Chế Linh may mắn được học hành đầy đủ. Lúc nhỏ, khi theo học chương trình tiểu học Pháp tại trường làng, ông được các linh mục người Pháp dạy thêm về nhạc lý căn bản. Lớn lên, Chế Linh theo học trung học tại trường Bồ Đề Phan Rang.
Năm 1958, Chế Linh bỏ làng, rời mảnh đất quê hương quanh năm khô cằn nắng cháy để một mình vào Sài Gòn. Gần đây, trong một lần tự kể về cuộc đời, ông đã kể lý do của việc bỏ làng ra đi này là do làng của ông ở quê với làng kế bên thường xuyên xảy ra xích mích, ẩu đả nhiều lần, ông lúc đó dù còn nhỏ nhưng bị vạ lây, bị thương vài lần. Ngoài ra khi đó vẫn còn sự kỳ thị về sắc tộc giữa các làng với nhau.
Sự việc này, cộng với lý do trước đó từng được Chế Linh kể lại là ông cũng muốn được mở mang tầm mắt, tìm kiếm tương lai tươi sáng hơn và không muốn an phận ở quê nhà. Năm 16 tuổi, Chế Linh trốn gia đình, không cho ai biết, nhờ hai người bạn thân chở tới một trạm xe lửa nhỏ. Ông kể lại:
“Tôi leo lên xe lửa chỉ với một chồng bánh tráng, một bộ đồ, phía đó không có một người quen biết nào cả, nhưng tôi đã nghĩ chỗ nào cũng là con người, rồi sẽ có tình thương, bao cậu bé đánh giày cũng sống được cơ mà. Khi ấy tôi thậm chí chưa nói thông thạo được tiếng Kinh, chưa biết chữ nên việc đầu tiên là tôi lo kiếm việc để sống chứ chưa có ý thức sẽ học nhạc.
Đến Sài Gòn, ba ngày đầu tôi chẳng có nơi ngủ, chẳng có gì ăn ngoài bánh tráng. Đến ngày thứ tư một ông xích lô đã chở tôi đến gặp gia đình người Tàu để nhận trông con giúp. Ban ngày trông trẻ, buổi tối tôi tự học nhưng không dám thắp đèn của chủ, mà tự mua đèn dầu để học. Thấy tôi như vậy, họ sợ cháy nhà và thương tôi nên đã mua bàn, mua đèn neon cho tôi học. Từ đó gia đình coi tôi như con, ông bà cho tôi đi học.”
Tuy được gia đình người Hoa đối xử rất tốt, được cho ăn học đàng hoàng, nhưng việc làm thuê như vậy không thể giúp tiến thân, không phải là mục đích khi quyết định rời xa quê, nên Chế Linh muốn tìm hướng đi khác cho cuộc đời.
Thời điểm này Chế Linh chỉ biết tiếng Pháp và tiếng Chăm, thường hát nhạc Pháp và nghe cổ nhạc chứ không nghe tân nhạc Việt. Tuy nhiên vào năm 1960, ông quyết tâm bước chân vào làng nhạc với suy nghĩ rằng chỉ có âm nhạc mới có thể giúp hoà đồng được với cuộc sống ở vùng đất mới. Năm 1962, khi tròn 20 tuổi, Chế Linh có may mắn tình cờ gặp lại vị linh mục người Pháp lúc nhỏ đã dạy nhạc cho mình. Vị linh mục tốt bụng đã nhận nuôi và động viên ông tiếp tục đi học.
Cũng trong năm này, đoàn văn nghệ Biệt Chính tổ chức cuộc thi tuyển lựa ca sĩ để bổ sung cho đoàn, Chế Linh đăng ký tham gia, xuất sắc giành được giải nhất và trở thành ca sĩ của Biệt Chính Đoàn, được làm việc chung với nhiều nhạc sĩ nổi tiếng là Trúc Phương, Bằng Giang, Châu Kỳ,… Từ đó Chế Linh đã có thu nhập tương đối để tự nuôi sống bản thân mà không cần nhờ đến sự giúp đỡ của ai nữa.
Tuy nhiên, đoàn Văn nghệ Biệt Chính chỉ hoạt động được khoảng 2 năm thì giải tán. Các nghệ sĩ đã có sẵn tên tuổi trong đoàn như Châu Kỳ, Trúc Phương,.. đều trở về Sài Gòn, riêng Chế Linh và Bằng Giang thì ở lại Biên Hòa. Vì chưa có tên tuổi, Chế Linh đã nghĩ rằng nếu có trở lại Sài Gòn thời điểm đó cũng khó để có thể cạnh tranh với những giọng hát đã thành danh nên đã cùng người bạn là Bằng Giang đến vùng núi Bửu Long để làm tài xế chở đá thuê.
Tuy nhiên Chế Linh cũng xác định đó chỉ là công việc tạm bợ, nên ngoài giờ làm việc, ông dành toàn bộ thời gian rảnh để luyện thanh, đồng thời tìm kiếm một con đường mới cho sự nghiệp, rèn luyện một phong cách riêng biệt, đó chính là cách hát thủ thỉ và nức nở, hát như là tâm sự. Ông đã cùng với người bạn là Bằng Giang hợp soạn những bài hát phù hợp với cách hát đó, với mong muốn là sẽ dễ dàng tiếp cận được đa số đại chúng nghe nhạc, đó là các bài hát Đêm Buồn Tỉnh Lẻ, Bài Ca Kỷ Niệm… Khi sáng tác những ca khúc đầu tay này, Chế Linh chọn cho mình bút danh là Tú Nhi, với ý nghĩa là một đứa bé khôi ngô tuấn tú.
Thời gian đó nhạc sĩ Bằng Giang là người luôn ở bên cạnh, biết rõ ý định của Chế Linh nên khi cảm thấy bạn mình đã đủ khả năng thì khuyên sớm trở lại Sài Gòn. Trong lúc Chế Linh vẫn còn đang lưỡng lự thì 2 nhạc sĩ Châu Kỳ và Trúc Phương từ Sài Gòn đã quay lại tìm Chế Linh để khuyên ông sớm gia nhập làng nhạc. Theo yêu cầu của Chế Linh, 2 nhạc sĩ tên tuổi này cũng sáng tác một số bài hát mang tính đại chúng, dễ nghe và dễ tiếp cận với phần đông khán giả, phù hợp với cách hát mà Chế Linh đã chọn.
Trở lại Sài Gòn với giọng hát gần gũi, tràn đầy tình cảm trong các bài hát được sáng tác riêng cho giọng hát của mình, Chế Linh nhanh chóng trở thành một hiện tượng. Cuối năm 1964, hãng đĩa Việt Nam ký hợp đồng với tiếng hát Chế Linh trong nhiều năm.
Từ đó ông chính thức tham gia vào làng nhạc và dần trở thành nam ca sĩ được yêu thích nhất của dòng nhạc vàng. Những năm tháng luyện giọng ở trên núi Bửu Long đã giúp Chế Linh khai phá ra một trường phái riêng biệt, giọng hát có nhiều ảnh hưởng đến các giọng ca nam hát nhạc vàng thế hệ sau này.
Năm 1967, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, giám đốc hãng Continental đề nghị Chế Linh song ca cùng với học trò của ông là nữ ca sĩ Thanh Tuyền nhằm tạo ra sự mới mẻ. Giọng hát trầm mềm mại của Chế Linh kết hợp với giọng ca cao vút, thanh mảnh của Thanh Tuyền đã tạo ra một đôi song ca ăn ý, hoà quyện trong các nhạc phẩm viết về tình yêu đôi lứa, được khán giả chào đón nồng nhiệt.
Bài hát đầu tiên mà đôi song ca này thể hiện là Hái Hoa Rừng Cho Em của nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân, và khi dĩa hát có bài này được tung ra thị trường đã trở nên ăn khách ngoài mong đợi. Từ đó đến nay Chế Linh và Thanh Tuyền cũng được xem là đôi song ca nhạc vàng thành công nhất và được yêu thích nhất.
Những năm cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970 đã đánh dấu thời kỳ hoàng kim của tên tuổi Chế Linh. Đặc biệt là năm 1972, ông được nhật báo Trắng Đen trao giải Kim Khánh cho nam ca sĩ được yêu thích nhất. Tuy nhiên, cũng trong năm này, các hoạt động âm nhạc của Chế Linh bị chính quyền bắt đầu kiểm soát, bị cấm hát ở nhiều nơi đặc biệt trên đài phát thanh và truyền hình, với lý do giọng hát của ông gây ảnh hưởng xấu cho tâm lý người lính.
Sự thật về việc Chế Linh bị VNCH cấm hát
Sau 1975, Chế Linh bị chính quyền mới cấm hát hoàn toàn. Năm 1978, ông bị khép tội phản động, bị bắt và biệt giam 18 tháng.
Năm 1980, Chế Linh vượt biên đến Canada và định cư ở đó đến nay. Tại Canada, ngoài việc ca hát, thu âm, đi lưu diễn ở nhiều nước có người Việt Chế Linh còn kinh doanh và mở phòng thu.
Năm 1984, Chế Linh cộng tác với trường đại học Sorbonner của Pháp thực hiện một dự án về văn hoá Chăm. Ông cũng từng ở Pháp suốt 2 năm để nghiên cứu về âm nhạc Chăm.
Năm 2007, Chế Linh trở về nước theo đoàn văn hoá của UNESCO. Tuy nhiên, ông chỉ tham gia biểu diễn giao lưu tại một chương trình riêng dành cho cộng đồng người Chăm, chứ không được cấp phép biểu diễn. Mãi đến năm 2011, Chế Linh mới được cấp phép biểu diễn trong nước cho đến nay.
Hiện nay ở tuổi tròn 80, Chế Linh vẫn chưa giải nghệ và còn đi hát. Có thể xem ông là một trong những ca sĩ lớn tuổi nhất thế giới vẫn còn hoạt động văn nghệ ở thời điểm hiện tại. Để giữ được giọng hát trong thời gian suốt 60 năm qua như vậy, Chế Linh đã tự đặt ra những nguyên tắc khắt khe cho chính mình, đó là không bao giờ nói chuyện với ai trước mỗi đêm diễn, thậm chí không nói chuyện cả với vợ.
Ngoài ra, danh ca Chế Linh cũng là người rất nghiêm túc và có bản lĩnh trong nghệ thuật. Ông là ca sĩ hiếm hoi nói không với hát nhép trong suốt sự nghiệp của mình, ngoại trừ một số chương trình buộc phải diễn để thu DVD và công khai cho khán giả biết ca sĩ hát nhép (Như trên Paris By Night hay Asia..). Ông chia sẻ: “Tôi không thích hát nhép, chương trình nào có Chế Linh tham gia, tôi cũng bảo ban tổ chức là: Cho Chế Linh hát live, bởi nhiều khán giả chờ đợi mình cả năm trời để nghe nghệ sĩ hát mà nhép thì tội lắm”.
Về cuộc sống gia đình, Chế Linh là ca sĩ nhạc vàng có nhiều vợ (chính thức) và nhiều con nhất với 4 người vợ và 14 người con.
Năm 21 tuổi, Chế Linh lấy người vợ đầu tiên. Họ sống với nhau trong 4 năm và có 5 người con. Sau khi chia tay người vợ đầu, ông cưới người vợ thứ hai năm 1967, có với nhau 4 người con sau 4 năm. Điều đặc biệt là 2 người vợ này là 2 chị em ruột, rất thương yêu và đùm bọc lẫn nhau.
Khi sáng tác ca khúc nổi tiếng Mai Lỡ Mình Xa Nhau, Chế Linh đã lấy bút danh Lưu Trần Lê, trong đó Lưu là họ trong tiếng Việt của ông, còn Lê là họ của người vợ đầu, Trần là họ của người vợ 2 (là chị em ruột nhưng 1 người mang họ cha, 1 người mang họ mẹ).
Sau khi chia tay người vợ thứ 2 năm 1971, chỉ một năm sau đó ông cưới người vợ thứ ba là Thúy Hằng, lúc đó mới 17 tuổi. Mặc gia đình ngăn cấm, Thúy Hằng vẫn làm vợ Chế Linh có với nhau 2 người con sau 3 năm chung sống.
Cuối năm 1975, Chế Linh tổ chức đám cưới lần thứ 4 và có thêm 3 đứa con. Người vợ thứ 4 này là bà Vương Nga, vẫn gắn bó với Chế Linh cho đến ngày nay.
nhacxua.vn biên soạn