Đôi nghệ sĩ, đôi tình nhân, đôi vợ chồng Lê Uyên & Phương là một trường hợp rất đặc biệt và là có thể xem duy nhất của nền tân nhạc Việt Nam. Nhắc đến âm nhạc của họ, nếu chỉ nhắc đến riêng một người, thì sẽ như thể là cắt đôi cái tên Lê Uyên Phương ra để nói, mà một nửa sự thật mãi mãi không bao giờ là sự thật, một nửa Lê Uyên hoặc Phương có lẽ sẽ chẳng thể làm nên một Lê Uyên & Phương huyền thoại. Trong hầu hết các sáng tác nổi tiếng nhất của mình, nhạc sĩ Lê Uyên Phương chỉ viết riêng cho cuộc tình của Lê Uyên & Phương, với những trăn trở, suy tư, và đam mê của chính họ.
Câu chuyện xung quanh cái tên Lê Uyên Phương (Lê Uyên – Phương, Lê Uyên & Phương)
Dù có tên thật là Lê Minh Lập, nhưng nhạc sĩ Lê Uyên Phương thực chất không phải người họ Lê. Thân sinh của Lê Minh Lập là người họ Phan, quê gốc ở Quảng Nam nhưng đã bỏ nhà đi từ năm 9 tuổi và bị thất lạc mất cha mẹ. Trên đường lưu lạc, do lo sợ bị ảnh hưởng bởi của cuộc cách mạng của cụ Phan Bội Châu nên nhiều người họ Phan đã đổi họ. Cha Lê Uyên Phương tự đổi sang họ Lê mà không hề biết rằng gia đình ở quê đã đổi thành họ Dương sau đó. Sau thời gian phiêu bạt khắp nơi, cha Lê Uyên Phương cưới vợ ở Nha Trang, rồi chuyển về Đà Lạt sinh sống và sinh ra Lê Uyên Phương tại Đà Lạt vào ngày 2 tháng 2 năm 1941.
Khác với quá khứ phiêu bạt của cha, mẹ của Lê Uyên Phương xuất thân từ dòng dõi vua chúa. Bà tên thật là Công Tôn Nữ Phương Nghi, tức công chúa Phương Nghi, con gái thứ chín của vua Thành Thái. Và dù tên thật là Lập, nhiều người vẫn gọi Lê Uyên Phương bằng cái tên Lộc, bởi Lê Văn Lộc chính là cái tên trên giấy tờ mà sau nhiều lần sửa đổi, làm lại giấy tờ đã bị cán bộ hộ tịch viết sai.
Nghệ danh Lê Uyên Phương được chàng nhạc sĩ Lê Minh Lập sử dụng từ trước khi quen biết nàng tiểu thư Lâm Phúc Anh (tức ca sĩ Lê Uyên sau này), trong đó Lê là họ, Phương là chữ trong tên mẹ, còn Uyên là tên người bạn gái đầu tiên. Sau này, khi cả hai đi biểu diễn cùng nhau thì lấy luôn cái tên Lê Uyên Phương (hoặc có nơi ghi là Lê Uyên – Phương, Lê Uyên & Phương, Lê Uyên và Phương) để làm nghệ danh chung. Nguyên nhân là do một lần nọ, sau khi biểu diễn xong, cặp đôi nghệ sĩ vừa xuống sân khấu thì được một nhóm phóng viên tới phỏng vấn. Khi được hỏi, ai là Lê Uyên Phương, do lúc này Lê Uyên mới đi hát, chưa có nghệ danh nhưng không muốn dùng tên thật nên chàng nhạc sĩ đã khéo léo trả lời thay rằng: “Đây là Lê Uyên. Còn tôi là Phương”.
Vì vậy, Lê Uyên Phương vừa là nghệ danh chung của cặp đôi, cũng vừa là bút danh riêng của nhạc sĩ được ông ký dưới các ca khúc của mình.
Tuy nhiên, có một sự quy ước, và để tránh bị nhầm lẫn, trong những bài viết đăng trên nhacxua.vn, khi viết là Lê Uyên Phương, thì đó là nhạc sĩ Lê Uyên Phương (một người), còn khi muốn nhắc đến nghệ danh chung của 2 người, xin được viết là Lê Uyên & Phương, như cách ghi của chính họ trong một số văn bản xưa.
Chuyện tình đẹp như phim
Ngược lại hoàn toàn với chàng nhạc sĩ, cũng là “ông giáo” Lê Uyên Phương dù dòng dõi vua nhưng nghèo khó, thì tiểu thư Lâm Phúc Anh (ca sĩ Lê Uyên) là con gái trong một gia đình thương nhân gốc Hoa giàu có. Cha Lê Uyên là người gốc Hải Nam, mẹ là người gốc Triều Châu. Mẹ của cô là vợ thứ năm trong số 9 người vợ của cha cô.
Lê Uyên sinh ngày 17 tháng 7 năm 1952 tại Hà Nội, đến năm 1954 thì theo cha mẹ vào Sài Gòn sinh sống. Gia đình cô ở trong một căn nhà khá bề thế tại khu Chợ Lớn, đồng thời cũng là văn phòng công ty vận vải của gia đình, chuyên chạy tuyến Sài Gòn đi các tỉnh miền Trung.
Cuộc tình định mệnh của họ bắt đầu vào năm 1967. Năm đó, Lâm Phúc Anh chừng 15 tuổi được cha mẹ gửi lên Đà Lạt để theo học tại trường Virgo Maria, ngôi trường Tây chỉ dành cho con nhà giàu có, quý tộc. Tình cờ ngôi nhà số 18 đường Võ Tánh (này là đường Bùi Thị Xuân – Đà Lạ) mà Lâm Phúc Anh ở lại nằm ngay gần nhà của Lê Uyên Phương, chỉ cách có một căn. Sau này, ca sĩ Lê Uyên kể lại:
“Tôi ở căn nhà số 18 còn anh Phương ở số nhà 22. Tôi lúc đó có vô số người theo, ngày đó anh Phương cũng có vô số người con gái theo, toàn là mỹ nhân đẹp nhất Đà Lạt. Phần anh, anh không chọn ai bởi vì anh hiểu rõ mình đang mang tật bệnh, lại không có tiền, lỡ chăng mất sớm thì anh không muốn ai phải khổ vì mình”.
Tuy nhiên, trời xui đất khiến, cô gái mới lớn Lâm Phúc Anh lại trúng tiếng sét ái tình với chàng công tử nhà nghèo ngay lần đầu nhìn thấy nhau:
“Một hôm tôi nhớ mình mặc chiếc áo dài để ra đường, tôi cảm thấy sợ sợ khi có một anh chàng dõi theo mình đi. Chợt anh chàng đó đứng dậy và nhẹ nhàng nói “Chào cô!”, lúc đó tim tôi muốn ngừng đập. Tiếng sét ái tình bỗng vang lên khi tôi nhìn vào mắt anh, cảm giác quen thuộc như mình đã từng biết nhau lâu lắm. Đúng là định mệnh, dù từ trước đến nay chúng tôi chưa bao giờ xao xuyến trước một người nào, nhưng khi nhìn thấy nhau, chúng tôi yêu nhau ngay từ lần đầu gặp mặt. Tôi như ᴄhết lặng trước mọi thứ diễn ra xung quanh mình, miệng tôi không thể thốt lên dù chỉ một từ mà lặng lẽ bước đi”.
Sau lần gặp gỡ “ngang qua” đó, Lê Uyên được bạn mời đi xem ca nhạc tại Hội quán Thanh Niên. Tại buổi diễn, Lê Uyên ngỡ ngàng khi thấy anh chàng hàng xóm đang kéo violon trên sân khấu rất thuần thục và xuất sắc. Chính lần gặp thứ hai này đã đánh gục trái tim cô tiểu thư. Không chỉ Lê Uyên mà cả chàng thanh niên 26 tuổi Lê Uyên Phương cũng nhanh chóng bị rung động bởi cô thiếu nữ xinh đẹp, cũng là người hàng xóm mới.
Tuy nhiên, hai người yêu nhau chưa bao lâu thì bố mẹ Lê Uyên biết chuyện và ra sức ngăn cấm. Đứng ở vị trí người làm cha làm mẹ, cha mẹ Lê Uyên cảm thấy không thể chấp nhận được việc cô con gái mới chỉ chưa tròn 16 tuổi còn ngây thơ, trong trắng, lại bị “quyến rũ” bởi một thầy giáo nghèo, tay trắng và lớn hơn cô đến 11 tuổi. Sau nhiều ngăn cản, cấm đoán mà không chia cắt được đôi tình nhân, cha mẹ Lê Uyên quyết định đưa con gái về Sài Gòn giam lỏng. Tuy nhiên, tình yêu của cặp đôi đã quá nồng đậm không dễ gì buông bỏ. Cứ mỗi cuối tuần, Lê Uyên Phương lại bắt xe đò về Sài Gòn để thăm người yêu.
Trong thời gian đó, nhạc sĩ Lê Uyên Phương đã sáng tác Dạ Khúc Cho Tình Nhân để bày tỏ nỗi lòng mình.
Click để nghe Lê Uyên & Phương hát Dạ Khúc Cho Tình Nhân trước 1975
Mặc cho cha mẹ ngăn cấm, Lê Uyên bất chấp mọi thứ để bảo vệ tình yêu của mình, không chỉ lén lút gặp gỡ, cô còn ép cha mẹ đồng ý bằng nhiều cách, như là uống thuốc nɡủ khiến gia đình phải đưa đi ᴄấp ᴄứᴜ, bỏ nhà đi theo Lê Uyên Phương lên Bảo Lộc sống cùng nhau cả tuần. Lê Uyên đã làm những việc có thể xem là quyết liệt nhất, kinh khủng nhất, và cũng dại dột nhất, nhưng mẹ cô vẫn một mực ngăn cấm. Trước tình hình đó, Lê Uyên đành chọn cách xuống nước năn nỉ cha nhờ ông thuyết phục mẹ. Cuối cùng, cha mẹ Lê Uyên đành chấp nhận tác thành cho cuộc hôn nhân của họ.
Lê Uyên kể: “Tôi sung sướng thông báo với anh về Sài Gòn làm lễ cưới ngay. Anh đi mượn tiền, đủ để sắm hai cái nhẫn cưới nhỏ, tức tốc về Sài Gòn. Cưới xong, chúng tôi quay lại Đà Lạt”.
Đó là ngày 2/11/1968, họ về chung nhà và đồng thời bắt đầu hành trình chung đôi trên sân khấu âm nhạc, bắt đầu từ Đà Lạt sương mù.
Âm nhạc Lê Uyên Phương
Có thể khẳng định, âm nhạc Lê Uyên Phương khác biệt với tất cả các thể loại nhạc khác của âm nhạc Việt Nam trước đó, ngay tại thời điểm nó ra đời, và cho đến tận sau này cũng hiếm có thứ nhạc nào mang nhiều chất men say nồng nàn và khắc khoải mãnh liệt đến như vậy. Nhạc sĩ Phạm Duy từng nói rằng Lê Uyên Phương chắc hẳn là một tín đồ của chủ nghĩa hiện sinh, nên dù sáng tác những ca khúc đậm chất cá nhân, riêng tư, vừa mê đắm, cuồng say, vừa “chất ngất” âu lo, sầu muộn, nhưng cũng là tiếng kêu than của cả một thế hệ trước thời cuộc.
Nhạc sĩ Lê Uyên Phương có sáng tác đầu tay vào năm 1960 khi mới 19 tuổi tại Pleiku là bài Buồn Đến Bao Giờ. Tuy nhiên, cho đến gần 10 năm sau, tức cuối thập niên 1960, cái Lê Uyên Phương vẫn là một tên tuổi hầu như vô danh trong làng nhạc Việt dù khi đó Lê Uyên Phương đã có rất nhiều ca khúc viết cho Lê Uyên & Phương mà sau đó đều trở thành bất hủ, tiêu biểu là Dạ Khúc Cho Tình Nhân, Lời Gọi Chân Mây, Vũng Lầy Của Chúng Ta, Tình Khúc Cho Em, Cho Lần Cuối, Hãy Ngồi Xuống Đây, Uống Nước Bên Bờ Suối…
Đầu năm 1970, nhà thơ Đỗ Quý Toàn, vị huynh trưởng trong phong trào hướng đạo sinh tại Việt Nam, trong một lần từ Sài Gòn lên Đà Lạt tham gia hội họp với các nhóm hướng đạo sinh Đà Lạt đã tình cờ được người quen của nhạc sĩ Lê Uyên Phương cho nghe một băng nhạc tự thu của ông tại nhà. Bất ngờ với thứ âm nhạc đặc biệt của Lê Uyên Phương, Đỗ Quý Toàn ngỏ ý muốn gặp mặt và tìm cách giúp đỡ Lê Uyên & Phương.
Trong kỳ nghỉ Tết Nguyên Đán ngay sau đó, cặp đôi Lê Uyên & Phương đã xuống Sài Gòn và được nhà thơ Đỗ Quý Toàn giới thiệu đến gặp nhà báo Đỗ Ngọc Yến, một người hoạt động tích cực trong các phong trào văn hoá văn nghệ của sinh viên. Ông Đỗ Ngọc Yến sau đó đã sắp xếp cho cặp đôi Lê Uyên & Phương biểu diễn trong chương trình văn nghệ sinh viên được tổ chức tại Trường Quốc Gia Âm nhạc và Kịch nghệ. Cũng chính từ lần biểu diễn này, sau cuộc gặp gỡ với phóng viên báo chí, hai cái tên Lê Uyên & Phương chính thức ra mắt làng nhạc Sài Gòn.
Trong vòng 19 ngày có mặt tại Sài Gòn, Lê Uyên & Phương liên tục được mời biểu diễn cho sinh viên các trường Văn Khoa, Sư Phạm, Y Khoa, Luật Khoa, biểu diễn cho Đài truyền hình và cả quán cafe Nai Vàng của nhạc sĩ Cung Tiến. Thành công đột ngột và vang dội của cặp đôi nghệ sĩ có lẽ là điều cả hai chưa từng tưởng tượng đến trước đó.
Âm nhạc Lê Uyên Phương giống như một mồi lửa bén, khác lạ và mới mẻ, đốt cháy các sân khấu âm nhạc Sài Gòn, thu hút gần như mọi sự chú ý của công chúng yêu nhạc và cả giới văn nghệ sĩ. Nhạc sĩ Phạm Duy trong hồi ký của mình đã viết về âm nhạc Lê Uyên Phương như sau:
“Thời ấy, giữa không khí ngột ngạt của chiến tranh, Trịnh Công Sơn tìm đến những ca khúc phản chiến, còn Lê Uyên Phương thốt lên tiếng nói tuyệt vọng của một thế hệ thanh xuân trong trẻo, muốn được sống để yêu đương trong thanh bình thì lại bế tắc trước thực tại. Họ vùi sâu vào tình yêu mà tìm quên. Họ công khai mong manh, công khai tàn lụi, Lê Uyên Phương chắc đã là một tín đồ của chủ nghĩa hiện sinh nên đã thốt lên tiếng kêu than của thế hệ thanh niên ấy bằng một thứ âm nhạc trẻ trung có nhuốm mùi nhục cảm. Những giai điệu ấy đã được Phương và vợ là ca sĩ Lê Uyên – một giọng nữ cũng đầy nhục cảm hát giữa thanh niên, sinh viên Sài Gòn. Và họ được đón nhận nồng nhiệt.”
Và chính nhạc sĩ Phạm Duy cũng không ngần ngại thừa nhận, ông ít nhiều bị thu hút và ảnh hưởng bởi thứ âm nhạc đặc biệt đầy dục tính của Lê Uyên Phương khi viết ca khúc Cỏ Hồng:
“Vào năm 1970, sau khi tôi đã soạn xong những bài như Trả Lại Em Yêu, Con Đường Tình Ta Đi… vốn là những bài ca tình cảm mô tả cuộc tình của những lứa đôi đang sống một cuộc đời bấp bênh vì không tránh khỏi cảnh xa nhau bởi thời thế. Một nhạc sĩ khác, Lê Uyên Phương, tung ra một loạt ca khúc mang chất dục tính, ví dụ như bài Vũng Lầy Của Chúng Ta. Tôi bắt chước anh, soạn một bài có tính chất xưng tụng nhục thể”.
Sau thành công ở các sân khấu sinh viên, Lê Uyên & Phương liên tiếp nhận được lời mời biểu diễn và ký kết hợp đồng với 5 phòng trà khác nhau ở Sài Gòn, với mức thù lao cao chất ngất trong vòng 4 năm. Một đêm diễn phòng trà (hát 3 bài) như vậy cặp đôi được trả thù lao là 5000 đồng, bằng lương giáo viên 1 tháng của Lê Uyên Phương.
Năm 1970, nhạc sĩ Lê Uyên Phương phát hành 2 tập nhạc là Khi Loài Thú Xa Nhau và Yêu Nhau Khi Còn Thơ với lời giới thiệu của nhạc sĩ Cung Tiến như sau:
“Chỉ một lần nghe, ta cũng có thể cảm thấy ngay đó là những khúc ca được sáng tác với cảm hứng âm nhạc đích thực, nhưng đó là một cảm giác không làm dáng và cũng không làm ra quá đáng, mà độ lượng, như là cố ý cầm lại vừa với tầm ngậm ngùi, ngao ngán của kiếp sống…
Tiếng nói mới đó, những “chansons de sanglot” đó, không biểu tỏ gì khác hơn là hạnh phúc ái tình giống như một hòn đảo mịt mù sương trong cơn giông thời đại. Bởi vậy mà ta nghe thấy nhiều đau đớn, nhiều nức nở đến thế. Chẳng phải là niềm đau mê man, mà là niềm đau sáng suốt: mắt mở thật lớn, ta nhìn nó đi thẳng vào tim ta đau nhói. Đó là tại sao những melodies đau đớn của PHƯƠNG – nơi ta có lẽ đã bắt lại được một machochisme huy hoàng – luôn luôn ở mode majeur. Cái “buồn majeur” là cái buồn sâu thẳm nhất trong âm nhạc có chủ âm. Và đó chính là “thú đau thương” đơn và thuần vậy…”
Tình yêu chuyển thành tình thân
Năm 1979, cặp đôi Lê Uyên & Phương di cư đến Mỹ. Sau khi ổn định cuộc sống, họ tiếp tục cống hiến trên sân khấu âm nhạc hải ngoại. Nhạc sĩ Lê Uyên Phương cũng sáng tác thêm nhiều ca khúc khác. Giữa thập niên 1980, từ những lần trả lời phỏng vấn và cả tâm sự trên sân khấu âm nhạc của nhạc sĩ Lê Uyên Phương sau đó, khán giả đều hiểu rằng cuộc hôn nhân của họ đã tan vỡ sau hơn 15 năm chung sống, có 2 người con gái tên là Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My.
Click để xem liveshow Lê Uyên Phương năm 1990 và lời tâm sự của Lê Uyên Phương
Trong một đêm diễn ở phòng trà Phương Đông năm 1990, chính nhạc sĩ Lê Uyên Phương đã trực tiếp xác nhận rằng hôn nhân của Lê Uyên & Phương đã tan vỡ như sau:
“Kính thưa quý vị. Không biết cái điều sau đây là 1 sự tình cờ, là định mệnh, hay là sự thấu thị trong nghệ thuật, mà những điều chúng tôi viết cách đây 20 năm trong những bài tình ca, 20 năm sau những sự kiện đó xảy ra y như thật.
…
Tất cả những ca khúc viết cách đây 20 năm trong thời kỳ tràn trề hạnh phúc thì chỉ nói lên những điều chia cách và báo hiệu những điều không tốt đẹp trong đời sống tình cảm của chúng tôi. Thì tới lúc này những điều đó đã xảy ra”.
Tuy nhiên trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí trong nước thời gian gần đây, ca sĩ Lê Uyên khẳng định tình cảm của họ chưa bao giờ tan vỡ, luôn một lòng một dạ yêu thương nhau cho tới giờ phút cuối cùng. Nguyên văn đoạn trả lời của ca sĩ Lê Uyên như sau:
“Cho đến ngày anh qua đời, tôi và anh vẫn một lòng một dạ yêu thương nhau, chưa từng mang cho nhau một thương tổn gì, chưa từng để cho một người thứ 3 chen vào.
Sang Mỹ, anh sống những ngày rất rỗng, rất sốc và nhớ Đà Lạt. Anh gần như mất hết cảm hứng sáng tác. Thương anh, tôi mở một quán nhạc để chúng tôi đàn hát lại, thỏa đam mê mỗi tối. Và rồi một hôm, khi chuẩn bị dọn dẹp quán sau buổi diễn, có một băng giang hồ gây lộn và bắп nhau ngay trong quán tôi. Đứa con nhỏ của tôi đang đứng ngay ở cửa. Tôi biết rằng, đạп có thể bay vào người con tôi bất cứ lúc nào. Thế là tôi, bằng bản năng của một người mẹ, xông ra đưa con vào trong. Một viêп đạп đã trúng vào tôi, thủпɡ ruột. Tôi được cứu sống. Nhưng phải mổ lấy viên đạп và phải điều trị rất lâu. Tôi phải nghỉ hát trong nhiều năm liền. Những khi đó, anh vẫn ở bên cạnh chăm sóc, lo lắng, yêu thương như bao năm anh đã yêu.
Có lẽ vì lý do vắng bóng đó, mà những tin đồn tan vỡ mọc lên. Hôn nhân chúng tôi chưa bao giờ tan vỡ.”
Tuy nhiên, dựa trên những lời đồn đoán và cả những tâm sự của nhạc sĩ Lê Uyên Phương thì có thể hiểu rằng, mối quan hệ của cặp đôi Lê Uyên & Phương từ tình yêu đã chuyển thành tình bạn, tình thân. Thứ tình thân quý giá và hiếm hoi giữa những người từng yêu nhau, như lời chia sẻ của nhạc sĩ Lê Uyên Phương trong bài trả lời phỏng vấn của Trường Kỳ thực hiện vào năm 1998 tại nhà riêng của Lê Uyên Phương, trước khi ông qua đời chỉ 1 năm. Khi được hỏi về tình cảm của hai người sau khi đổ vỡ hôn nhân, nhạc sĩ Lê Uyên Phương khẳng định:
“Không có ai thân với bà như tôi với bà ấy hết. Bà ấy cũng không coi ai thân trong đời bà ấy như đối với tôi. Không có chuyện gì mà bà Uyên không hỏi tôi hết. Nhưng hai đứa tôi hoàn toàn trong sạch một cách kinh khủng. Như một người bạn, hoàn toàn bạn một trăm phần trăm. Nhưng mà chia sẻ là chia sẻ perfect, trừ một vấn đề là thể xác không chia sẻ. Còn mọi thứ tôi đều sẵn sàng chia sẻ với bà ấy hết”.
Niệm Quân (nhacxua.vn) biên soạn