Thập niên 1950 – 1960 tại Sài Gòn, thi ca miền Nam đang còn mang đẫm không khí của thời tiền chiến với lời thơ trau chuốt: “em đẹp bàn tay ngón thon thon”, “mắt xanh lả bóng chiều hoang dại”, “em đi áo mỏng buông hờn tủi”, “em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây”… thì có một thi sĩ mang tên Nguyên Sa lại dẫn các “con chó ốm”, “con mèo ngái ngủ”, “con cá ươn” vào đòi nhập cuộc chơi.
Thi sĩ Nguyên Sa tên thật là Trần Bích Lan, sinh ngày 1 Tháng 3 năm 1932 tại Hà Nội. Năm 1949 ông du học Pháp, lúc đầu ở Provins, sau đó lên Paris ghi danh học triết tại Đại Học Sorbonne.
Về Sài Gòn năm 1956, ông dạy môn triết tại trường Trung Học Chu Văn An và trở nên nổi tiếng trong ngành, dạy tư thêm tại nhiều trường tư thục khác. Đã nổi tiếng về dạy học, ông còn nổi tiếng nhờ những bài thơ tự do, thơ tám chữ đăng trên tờ Gió Mới của hội giáo chức từ các năm 1958. Chẳng hạn như bài “Áo Lụa Hà Đông:”
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.
Anh vẫn nhớ em ngồi đây, tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa.
Gặp một bữa anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu.
Em không nói đã nghe lừng giai điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt.
Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
Để anh giận mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy trên môi
Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng
Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.”
Năm 1960 Nguyên Sa chủ trương tạp chí Hiện Đại cùng với Thanh Nam, Thái Thủy và ký giả Trịnh Viết Thành. Không vì thế mà ông không viết và đăng thơ trên các báo khác.
Thơ Nguyên Sa giản dị, gọi là thơ tự do song không tân kỳ bằng chữ nghĩa danh từ mà đơn giản là đằng khác. Cái tân kỳ của ông là cách so sánh với hình ảnh độc giả chưa từng nghe, hay chỉ nghe biết qua thơ ông mà thôi. Người đọc rất bất ngờ trước cách đặt câu hay sự so sánh thẳng tuột và duyên dáng ý nhị trong thơ ông.
Những câu thơ mà Nguyên Sa đem từ Pháp về Việt Nam năm 1956 đã thay đổi rộng khắp cảm nhận thi ca của đa số thanh niên Việt Nam. Giống như một nhạc cụ mới, có âm hưởng sâu và đánh thức giác quan thẩm mỹ của thời đại, thơ Nguyên Sa đã góp phần làm bản hòa tấu đa âm của thi ca Việt Nam thêm những rung động lạ lẫm cuốn hút người đọc mà Thơ Mới của tiền chiến tỏ ra không còn đủ sức hấp dẫn như lúc khởi đầu.
Thơ Nguyên Sa nhanh chóng tràn vào từng lớp học, nơi trái tim học trò đập những nhịp điệu đầu tiên của tình yêu. Nguyên Sa yêu và chia sẻ cách yêu của mình qua kinh nghiệm một chàng trai có những thời khắc tuyệt vời tại Pháp, thủ đô của tình yêu trai gái, thủ đô của những giòng thơ trác tuyệt từng một thời là bệ phóng cho hàng trăm thi tài thế giới.
Nguyên Sa đem cái hồn phách của Châu Âu tái sinh sau khi thế chiến thứ II chấm dứt về Sài Gòn và nhanh chóng chiếm trọn sự cổ vũ nồng nhiệt của sinh viên học sinh. Ông đem ánh đèn vàng Paris, nơi có những nhà ga là nguồn cảm hứng vô tận cho những cuộc chia tay. Ông mang theo hơi hám của sông Seine, của nhà thờ Notre Dame về lại Sài Gòn, nơi mà nhiều thế hệ thanh niên chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp.
Về tới Sài Gòn ông lại hỏi thăm Paris. “Paris có gì lạ không em?” Hỏi nhưng ông biết Paris vẫn thế, vẫn những quán café nho nhỏ xinh xinh trên đường phố Montmartre thuộc quận 18 của Paris. Vẫn giòng sông Seine cuốn hút gợi tình. Câu hỏi của Nguyên Sa về Paris đã làm thanh niên học sinh Sài Gòn thổn thức như chính họ đã từng ở Paris nay về lại quê hương mà lòng không tránh được nhớ nhung một thuở.
Thanh niên Sài Gòn nhớ cái mà họ chưa từng trải nghiệm qua thơ Nguyên Sa. Bắt đầu từ đây ông bước vào lãnh thổ khép kín của nhiều người. Ông cùng với họ thở hơi thở thi ca bằng những ngôn từ mới, rất mới, cho tới bây giờ sau hơn nửa thế kỷ vẫn còn mới tinh. Paris có gì lạ không em?
“Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một giòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em ?
Anh sẽ chép thơ trên thời gian
Lời thơ toàn những chuyện hờn ghen
Vì em hay một vừng trăng sáng
Đã đắm trong lòng cặp mắt em?”
Paris không những là kinh đô của ánh sáng mà nó còn là thủ phủ của tình yêu. Có lẽ yếu tố tình yêu của Paris dính liền với lứa tuổi học trò Việt Nam thời đó. Thời của những trang lưu bút, những cánh hoa ép vào trong vở học, những hò hẹn ngây thơ và đầy tiếng ve, xác phượng là khoảng thời gian đẹp nhất trong một đời người. Trong lứa tuổi ấy tình yêu bắt đầu với những giai điệu mong manh và huyền ảo nhất.
Trịnh Gia Mỹ, một học trò của ông và cô cũng là một nhà thơ, đã viết: “Có thể nói thơ tình Nguyên Sa có nhiều người đọc nhất, có nhiều người thuộc nhất. Nhiều thế hệ đã đọc thơ ông và sẽ đọc thơ ông”.
Người ta đã chép thơ Nguyên Sa tặng nhau để thay lời tỏ tình. Người ta đọc thơ Nguyên Sa cho nhau nghe như đọc những giáo điều tình yêu, để thấy cuộc đời dễ thương hơn, tình thơ mộng hơn…
Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng?
Mưa tôi chả về bong bóng vỡ đầy tay
Trời nắng ngạt ngào… tôi ở lại đây
Như một buổi hiên nhà nàng dịu sáng
Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám?
Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba
Tôi phải van lơn, ngoan nhé đừng ngờ
Tôi phải dỗ như là tôi đã lớn
Người con gái ấy trong thơ là cô bé Trịnh Thúy Nga, sau này là người bạn đời của thi sĩ Nguyên Sa. Hai người từng du học bên Pháp. Khi trở về Sài Gòn, hai ông bà vừa được mời dạy tại các trường Trung học công lập và điều hành trường Trung học tư thục Văn học và Văn Khôi.
Nguyên Sa và bà Thúy Nga lúc còn ở Hà Nội
“Nga”, bài thơ mà thi sĩ đã ghi trong Hồi ký “là bài thơ và cuộc đời mà ông cực kỳ yêu mến”. Xin trích đoạn:
Và em sẽ cười phải không em
Em sẽ không buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Để anh giận sao chả là nước biển…
Trong cái không khí mênh mang thơ tiền chiến lúc bấy giờ, với một ngôn ngữ rất… đời thường đưa vào thơ như thế, nhưng vẫn được giới trẻ thời ấy chấp nhận vì những hình ảnh tinh nghịch, dí dỏm trong thơ trở nên rất dễ thương.
Hình ảnh Nga gần như tràn ngập trong tất cả những bài thơ tình của Nguyên Sa… Không có gì là lạ vì người thiếu nữ dễ thương duyên dáng tên Nga sau này là người bạn đời của thi sĩ là một nữ giáo sư rất đẹp, ai đã từng được học với cô đều yêu quý kính trọng.
Thơ Nguyên Sa, nói như nhà văn nhà thơ Bùi Bảo Trúc thì “đang từ cái thế giới tiền chiến “em đẹp bàn tay ngón thon thon”, đang Đinh Hùng “mắt xanh lả bóng chiều hoang dại”, đang Quang Dũng “em đi áo mỏng buông hờn tủi”, đang Huy Cận “em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây”… thì người ta lại dẫn con chó ốm, con mèo ngái ngủ, con cá ươn vào đòi nhập cuộc chơi”.
Cái vé vào cửa kỳ lạ đó vẫn đẩy được cánh cửa khép kín của thơ Việt Nam cho người thanh niên trẻ ấy bước vào. Mặc dầu đi với chàng ta là tả ngạn sông Seine, là vườn Luxembourg mùa xuân, là những quán ca phê lề đường của thủ đô ánh sáng, là những hơi thở của Prevert, của Apollinaire… Chàng tuổi trẻ đó đưa cho người đọc hình ảnh thơ không giống bất cứ một thứ ước lệ nào dùng trước đó. “Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm”.
Nguyên Sa và vợ ở vườn Luxembourg
Nguyên Sa đem ngay được cái mới của đôi mắt nhìn từ sân trường Sorbonne, của dòng sông mà Apollinaire nói đến rất nhiều, của những góc đường Prevert đã đứng nhìn ra những đại lộ, công viên mùa thu hay dưới trận mưa hạnh phúc.
Những cánh rừng quên mất mặt xuân
Những chân nai đi tìm tay cỏ biếc
Những mắt sóng vỡ trên thung lũng biển
Những đảo buồn chìm trong im lặng xanh
Nguyên Sa đã cho thơ một đời sống mới
Trang sức bằng nụ cười phì nhiêu
Nhẩy bằng chân chim trên giòng suối cạn
Ấy là em trên đường đi buổi sáng
Trăng ở trên môi và gió ở trong hồn
Những màu áo vàng, áo xanh, áo tím, và ngay cả đôi găng tay che nắng làn da nữ sinh Sài Gòn cũng thấp thoáng trong thơ… Thơ của ông được tuổi trẻ miền Nam đón nhận ngay lập tức. Một thế hệ mới không còn phải nhờ những bài thơ tiền chiến nói hộ lòng mình. Họ có Nguyên Sa giúp họ tỏ tình với sân trường, “với thơ học trò anh chất lại thành non | với tay trắng anh vào thơ diễm tuyệt”.
Rồi có cả những bài thơ ý từ táo bạo rất bất ngờ như bài thơ có tựa là Bất Ngờ sau đây:
Đêm mưa có chỗ bất ngờ
Chỗ thêm ấm áp chỗ thờ phượng nhau
Mai về mẹ hỏi đi đâu
Đắp chăn trùm kín ngang đầu nghe em
Thiên đường có chỗ màu đen
Anh nằm nghe thấy vẫn còn tiếng mưa
Tiếng trời gõ nhịp tiếng trưa
Tiếng cho sâu thẳm tiếng khuya tuyệt vời
Cách đi vào thơ của Nguyên Sa là như thế. Đó là những nét tinh nghịch, tươi trẻ, là dáng vẻ mơ mộng lãng mạn, là chữ nghĩa lồng lộng tình cảm, là lấp lánh trăng sao, là buổi tối mưa đêm dìu dặt…
Trở về Việt Nam trong hoàn cảnh miền Nam đang hít thở bầu không khí chính trị mới, Nguyên Sa đóng góp vào nền văn học Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Ngoài thơ, ông còn là một nhà báo, một cây viết phê bình văn học, một nhà lý luận và còn là một nhà giáo dục.
Là Hiệu trưởng trường Văn Học, dạy môn Triết tại trường Chu Văn An cũng như đại học Văn Khoa và nhiều trường trung học nổi tiếng khác tại Sài Gòn như Văn Lang, Hưng Đạo, Thủ Khoa, Thượng Hiền, Nguyễn Bá Tòng… ông có cơ hội tiếp cận với học sinh, sinh viên và để lại trong lòng nhiều lớp người ký ức đẹp đẽ khi theo học thầy Trần Bích Lan, tức nhà thơ Nguyên Sa.
Sách triết do Trần Bích Lan (Nguyên Sa) viết
Nguyên Sa, hạt cát nguyên sơ ấy đã theo chân học trò và người yêu thơ ông góp vào hành trang của họ những luận lý Tây phương cũng như cảm nhận cái đẹp với ý thức hoàn toàn vượt ra khỏi sự cũ kỹ nhàm chán của một nền Hán học vẫn đậm đặc trong xã hội. Thầy Trần Bích Lan không giảng bài mà ông thầm thì với học trò của ông những vần thơ tuyệt đẹp để từ đó nhiều người nhận ra rằng thơ có khả năng mở sáng trí tuệ chứ không chỉ là giai điệu hay những nỗi buồn, niềm vui bình thường của con người.
Giống như hầu hết văn thi sĩ miền Nam, thơ Nguyên Sa trong những năm chiến tranh có thay đổi tuy không lớn và máu lửa như nhiều nhà thơ khác. Trong những bài thơ mang tính thời cuộc ấy vẫn thoang thoảng cá tính Nguyên Sa, một thiên sứ tình yêu, một cung bậc mới trong cảm nhận văn học.
Nhắc đến Nguyên Sa người yêu thơ ông vẫn tưởng nhà thơ đang rong chơi đâu đó vì ngôn ngữ vẫn sát với khung cảnh thường nhật hôm nay. Mặc dù nhà thơ đã từ trần vào ngày 18 tháng Tư năm 1998, cách đây đã hơn 20 năm, nhưng thơ ông vẫn được nhiều người nhắc tới như xưa, đặc biệt trong hoàn cảnh tình yêu tuổi học trò ngày một biến mất, để thay vào đó là những trò chơi tình cảm nhục dục của thanh niên trong thời đại mới.
Mỗi tiếng thở dài tiếc nuối quá khứ là một câu thơ của Nguyên Sa. Mỗi câu thơ của ông có khả năng làm mới tâm hồn, để biết rằng trong bất cứ thời đại nào nhịp đập tình yêu vẫn là suối nguồn sự sống.
(nhacxua.vn biên soạn dựa theo các bài viết từ VOA, RFA, nguoi-viet)