Ý nghĩa của bài trường ca “Hội Trùng Dương” (nhạc sĩ Phạm Đình Chương) – Tuyệt tác của tân nhạc Việt Nam

Trong thập niên 1950, Phạm Đình Chương đã viết những tác phẩm để đời như Ly Rượu Mừng, Xuân Tha Hương, Thuở Ban Đầu, Tiếng Dân Chài... Đáng kể nhất là trường ca bất hủ Hội Trùng Dương mà ông viết về đất nước Việt Nam hoa gấm qua ba bài ca nói về con sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long. Theo như lời ông đã nói với gia đình, trường ca này đã phải tốn mất 4 năm để hoàn tất.

Nếu bạn là người yêu thích nhạc xưa, hãy theo dõi kênh YouTube này để nghe đọc các bài cảm nhận về âm nhạc (phân tích ý nghĩa, hoàn cảnh sáng tác, tiểu sử ca nhạc sĩ): LINK YOUTUBE  < Click

Nhiều người đã xếp Hội Trùng Dương ngang hàng với những bản trường ca nổi tiếng trước đó như Sông Lô của Văn Cao hay Hòn Vọng Phu của Lê Thương. Ca khúc được sáng tác vào năm 1954 khi đất nước bị chia cắt, ông muốn nói lên tâm tư của những dòng sông trôi về biển Mẹ. Tiếng Sông Hồng tha thiết với những âm thanh Quan Họ. Tiếng Sông Hương da diết với những đồng vọng giọng hò xứ thần kinh, và Tiếng Sông Cửu Long vui tươi với những tiếng dân ca mộc mạc.


Click để nghe bản Hội Trùng Dương do Ban Thăng Long trình bày lần đầu vào dĩa đá 78 vòng vào thập niên 50

Khởi đầu bài trường ca là lời giới thiệu về sự có mặt của 3 dòng sông mà nhạc sĩ gọi là LỜI BIỂN. Biển được nhân cách hóa để tự nói về những dòng sông đã cùng đổ ra biển Đông, cùng kết tụ thành trùng dương mênh mông:

Trùng dương, chốn đây ngàn phương
có ba dòng sông cuốn xuôi biển Đông nhớ câu chờ mong

Về khơi, sóng muôn triền tới
nước non buồn vui, đây hội trùng dương đầy vơi
Sóng muôn triền tới, sóng xô về khơi
như muôn tình mới, vươn sức người bừng giữa đời...


Click để nghe Ban Thăng Long hát Tiếng Sông Hồng trước 75

Dòng đời cũng giống như dòng chảy từ mạch nước nguồn nơi ngàn phương đổ ra sông để tìm về nguồn cội là biển Đông, rồi luân lưu thành giọt mưa để tiếp tục vòng đời bất tận. Thời gian thiên biến vạn hóa, từng lớp người nối tiếp nhau như muôn đợt sóng trùng điệp vươn tới “như muôn tình mới, vươn sức người bừng giữa đời...”

Bằng sự so sánh những thế hệ người Việt với dòng chảy của 3 dòng sông, nhạc sĩ ca ngợi tinh thần dân tộc, sức vóc và sự đoàn kết, muôn giọt nước chảy thành sông cũng giống như là muôn sức người góp lại để dựng xây cuộc đời. Lời của những dòng sông đều được biểu tượng hóa bằng nỗi lòng của thiếu nữ ở 3 miền, tự xưng mình là Em. Tâm sự của mỗi dòng sông cũng là tâm sự của người dân về nỗi khó khăn trong sự khuất phục thiên nhiên, về sự can trường tranh đấu với nạn ngoại xâm.

Sông Hồng

Bài trường ca bắt đầu từ sông Hồng ở thượng nguồn của dải đất hình chữ S, được nhạc sĩ viết một phần trên nền điệu hò dô ta:

Chiều nay nước xuôi dòng đại dương
có Em tên sông Hồng
dâng sóng tuôn trên nguồn

Vẩn vơ nắng quái vương trên phù sa
có những cô thôn mờ xa đón bầy dân đánh cá.
Về đây trai gái sống vui một miền
quanh năm anh cuốc em liềm
vun xới ruộng mùa lúa chiêm.

Từ thượng du nước trôi về trung châu
ấp ôm đồng ruộng sâu bên người áo nâu giãi dầu.

Hò ơi!
Gối đầu trên Lào Kay Việt Trì
em nằm tóc xõa bãi cát dài
thả hồn mơ tới Thái Bình qua Sơn Tây

Sông Hồng có khởi nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc), đi qua Việt Nam ở phía Lào Cai (xưa gọi là Lào Kay), một đoạn sông trở thành biên giới tự nhiên giữa 2 nước, trước khi đi xuyên qua thành phố Lào Cai ngày nay để xuống Việt Trì Phú Thọ ở vùng thượng du trước khi đổ vào Sơn Tây rồi tới Hà Nội, cuối cùng là đổ ra Biển Đông ở vùng Thái Bình – Nam Định. Sông Hồng có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống văn hóa và lịch sử của Bắc Bộ, đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương nhân cách hóa thành một cô gái nằm gối đầu trên nguồn ở Lào Kay, những bãi cát trải dài là tóc của nàng. Ở dọc theo dòng sông uốn lượn này, đã có biết bao nhiêu thế hệ đã nương tựa vào sông để sinh sôi phát triển suốt hàng ngàn năm, và những hình ảnh như “anh cuốc em liềm” để “vun xới ruộng mùa lúa chiêm” và “ôm ấp đồng ruộng sâu” đã trở thành quen thuộc trong văn hóa lúa nước của dân tộc Việt.

Để có đời sống thanh bình như vậy, người dân lành phải đánh đổi bằng bằng mồ hôi, nước mắt, và cả bằng máu:

Nhớ ngày qua dân chúng lên đường
đem thịt xương ngăn giữ nương đồng
đem hy sinh thắm tô sông Hồng…

Nằm mơ, xuân vinh quang
trở về, cho non sông
và ngày nao nơi nơi trút sạch buồn thương
là ngày em mơ duyên người lập công…

Sông Hương

Sang đến phần 2 của bài trường ca, chúng ta đi về đến miền Trung với Tiếng Sông Hương, được nhạc sĩ vận dụng nhiều chất liệu dân nhạc đặc trưng của vùng miền để đưa vào nhạc, những câu hát viết về dòng Hương Giang được phỏng theo điệu hò Mái Đẩy miền Trung có nhịp điệu chậm rãi chơi vơi, như lời than van buồn thương giữa sông nước:

Miền Trung vọng tiếng:
Em xinh em bé tên là Hương Giang.
Đêm đêm khua ánh trăng vàng mà than.

Hò ơi! Phiên Đông Ba buồn qua cửa chợ.
Bến Vân Lâu thuyền vó đơm sầu.

Ơi hò! Ơi hò!
Quê hương em nghèo lắm ai ơi!
Mùa Đông thiếu áo Hè thời thiếu ăn.

Trời rằng: Trời hành cơn lụt mỗi năm à ơi!
Khiến đau thương thấm tràn ngập Thuận An
để lan biển khơi…
Ơi hò ơi hò.

Mở đầu bài hát là lời tự giới thiệu rất khiêm nhường và nhỏ nhẹ, như giọng điệu của những “o Huế”: Em xinh em bé tên là Hương Giang…

So với sông Hồng và Cửu Long có chiều dài và lưu lượng lớn, thì dòng Hương Giang quả đúng là “em xinh em bé”. Nếu như Cửu Long có 9 nhánh với hệ thống phụ lưu phức tạp, còn sông Hồng có tổng chiều dài trên lãnh thổ Việt Nam đến hơn 500km, thì Hương Giang chỉ có vỏn vẹn 30km.

Sông Hương êm đềm và phẳng lặng nằm lặng lẽ bên Núi Ngự, có cái buồn đặc trưng của vùng đất phế đô trầm mặc suốt trăm năm. Cho đến ngày nay, sau khi đã trải qua biết bao nhiêu bể dâu, du khách khi đặt chân đến Huế vẫn dễ dàng cảm nhận được cái nét chậm buồn muôn thuở đó. Buồn từ chân bước ngang chợ Đông Ba cho đến “bến Vân Lâu thuyền vó đơm sầu”. Đó là câu chữ có thể sánh ngang được với những lời thơ trau chuốt nhất, thể hiện được sự tài hoa của nhạc sĩ Phạm Đình Chương.

Miền Trung từ lâu vốn là miền nghèo “đất cày lên sỏi đá”, người dân quanh năm chống chọi với những cơn lũ lụt và hạn hán, “Mùa Đông thiếu áo Hè thời thiếu ăn”. Vào những mùa Thu – Đông hàng năm, hình như cứ khi nào mà thời tiết ở Hà Nội hay Sài Gòn đang rất đẹp với không khí se lạnh, mưa vừa phải, thì ở miền Trung đều phải oằn mình vì lũ, như đó là số phận mà dải đất miền Trung này năm nào cũng phải gánh chịu:

Trời rằng: Trời hành cơn lụt mỗi năm à ơi!
Khiến đau thương thấm tràn ngập Thuận An
để lan biển khơi…

Có lẽ cũng vì vậy mà đến khúc ca về sông Hương trong bài trường ca, giai điệu của bài hát trở nên ai oán và buồn thảm hơn so với 2 bài còn lại.

Ở đoạn tiếp theo của Tiếng Sông Hương, khúc ca trở nên gấp gáp, dồn dập hơn, nhưng vẫn không đi ra khỏi nỗi buồn, lần này là nỗi buồn của thời cuộc:

Hò ơi!
Ai là qua là thôn vắng.
Nghe sầu như mùa mưa nặng cùng
Em xót dân lều tranh chiếu manh.

Hò ơi! Bao giờ máu xương hết tuôn tràn.
Quê miền Trung thôi kiếp điêu tàn.
Cho em vang khúc ca nồng nàn…


Click để nghe Ban Thăng Long hát Tiếng Sông Hương trước 75

Những chữ trong đoạn này: Ánh (Đêm đêm khua ánh trăng vàng mà than), Bến (Bến Vân Lâu thuyền vó đơm sầu), Lắm (Quê hương em nghèo lắm ai ơi!), Mỗi (Trời rằng trời hành cơn lụt mỗi năm), Vắng (Ai là qua là thôn vắng), tuy là những thanh trắc nhưng đã bị kéo oằn xuống ở một vị trí thấp hơn những chữ đi kế trước hoặc tiếp sau (khua, trăng, vân, ai, năm, thôn). Cụ thể, những đoạn này sẽ nghe thành:

Chính vì vậy điệu hò mang nặng địa phương tính qua lối phát âm của miền Trung. Nét đặc trưng này làm cho người hát dù không phải là người miền Trung, nhưng nếu xướng âm đúng cao độ của câu hát cũng có thể tạo thành âm hưởng của tiếng nói miền này.


Click để nghe Ban Thăng Long hát Tiếng Sông Hương trước 75

Tiếng Sông Hương như là một nốt trầm trong trường ca Hội Trùng Dương, với mênh mang những nỗi buồn triền miên, rồi lại kết thúc bằng một niềm hy vọng như là vệt sáng le lói trong đêm trường, đó là niềm mong mỏi một ngày tan đao binh, mẹ bồng bế đứa con hãy còn bé bỏng ra đầu làng đón người trường chinh trở về trong niềm hân hoan tiếng cười đoàn viên:

Ngày vui, tan đao binh.
Mẹ bồng con sơ sinh.
Chiều đầu xóm xôn xao đón người trường chinh
Ngậm ngùi hân hoan tiếng cười đoàn viên.

Đoạn cuối của bài trường ca là vô tới miền Nam, nơi có Cửu Long ngập tràn phù sa. Đầy là miền đất màu mỡ, được thiên nhiên ưu đã đất đai trù phú, nên sức đối kháng của con người với thiên nhiên không còn mãnh liệt như miền Trung. Cũng vì vậy mà nét nhạc trở nên phóng khoáng, cởi mở, cũng giống như tính cách của con người miền Nam đôn hậu:

Đây Miền Nam
Nước sông sông cao cá lội ngù ngờ
Nước xanh xanh lơ bóng in cây dừa
Về về đây miền Đồng Nai có Cửu Long
Cuồn chảy dâng trời Nam mạch sống…

Một sáng Em ra khơi Vĩnh Long vui cười
Và Cần Thơ, Long Xuyên, lừng hương cau lúa chín
Đời vươn lên, thuyền ghé bến
Sống no nê dân quê một miền
Kìa nắng thương dân đây, nắng khô đồng lầy…

Sông Cửu Long

Những sản vật được thiên nhiên ưu đãi ở vùng miền Nam trù phú đã nuôi sống người dân nơi đây từ bao đời. Thời xưa, cả vùng miền Nam thường được gọi bằng cái tên là miền Đồng Nai, địa danh này chỉ vùng đất được Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh mở cõi ở cả vùng Nam Bộ, chứ không phải nói về tỉnh Đồng Nai hiện tại (tên gọi của tỉnh Đồng Nai cũng chỉ xuất hiện từ sau năm 1975).

Đoạn tiếp theo của bài trường ca là câu hò để chuyển tiếp nội dung. Đây cũng vẫn là lời của sông Cửu Long, dựa trên điệu ru con ở Nam Bộ:

Hò lơ hò lơ, hò là hò lơ
Chẻ tre bện sáo cho dày,
Ngăn ngang sông Mỹ có ngày gặp Em

Nguyên gốc đây là một câu ca dao, nhưng nhạc sĩ đã sửa lại 1 chữ, thay vì “có ngày gặp nhau” thì nhạc sĩ đổi thành “có ngày gặp Em” (Em ở đây chỉ sông Cửu Long). Sông Mỹ ở đây có thể là sông Mỹ Tho, là 1 nhánh của sông Cửu Long, ranh giới của Bến Tre và Tiền Giang ngày nay.


Click để nghe Ban Thăng Long hát Tiếng Cửu Long trước 75

Đoạn tiếp theo là khi cả 3 dòng sông đã cùng ra biển khơi và gặp nhau nơi trùng dương, khi đó “3 chị em cùng cất tiếng chung”:

Trùng Dương
Ba chị em là ba miền
Nhưng tình thương đem nối liền
Gặp nhau ven trời biển Đông thắm duyên

Hẹn nhau pha hòa sóng lan bốn phương trời,
Vang dội tiếng tranh đấu bao người, cho quê hương ấm no muôn đời

Giờ đây bao tâm tư
Rộn ràng như câu thơ
Hội Trùng Dương tay xiết chặt cùng hô:

Dựng mùa vinh quang
Hoa đời tự do

Ngay từ những năm đầu thập niên 1950, nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã đề cao sự hòa hợp dân tộc, dù ở 3 miền nhưng “tình thương đem nối liền”, vì cùng là đồng bào, dù ở xa nhau nhưng đều cùng pha hòa ở một nơi. Lời hát ca tụng một nước Việt Nam thống nhất, trọn vẹn, trước khi bị chia đôi chỉ vài năm sau đó.


Click để nghe Thái Thanh hát Trường Ca Hội Trùng Dương, bản thu ở hải ngoại

Bài: Đông Kha
Bản quyền bài viết của nhacxua.vn

Exit mobile version