“Nhạn trắng” Phương Dung – Một huyền thoại của dòng nhạc vàng

Nếu kể đến những giọng ca được coi là huyền thoại đã đi vào lịch sử tân nhạc Việt Nam thì chắc chắn Phương Dung không thể nằm ngoài danh sách này. Chất giọng cao và lảnh lót của cô đã chính thức đến với người nghe từ cuối thập niên 50, khi còn là một thiếu nhi 13, 14 tuổi. Giọng ca đó càng ngày càng gây nhiều chú ý trong bối cảnh của cuộc chiến tranh với những nhạc phẩm mang nội dung thật gần gũi với tình yêu trong thời chinh chiến hoặc với những nét đẹp của quê hương.

Nếu bạn là người yêu thích nhạc xưa, hãy theo dõi kênh YouTube này để nghe đọc các bài cảm nhận về âm nhạc (phân tích ý nghĩa, hoàn cảnh sáng tác, tiểu sử ca nhạc sĩ): LINK YOUTUBE  < Click

Những yếu tố đó đã mang đến cho Phương Dung một sự thành công lớn để cô có thể hãnh diện về sự đóng góp của mình cho nền tân nhạc Việt Nam.

Sau khi xuất hiện không bao lâu, Phương Dung đã được thi sĩ Kiên Giang tặng cho danh hiệu “Con Nhạn Trắng Gò Công”, bắt nguồn từ nơi cô sinh trưởng ở vùng Tiền Giang.

Gia đình Phương Dung là một gia đình khá giả ở Gò Công, có vườn tược, hoa màu cùng cửa hàng buôn bán như cô cho biết. Song thân cô có tất cả 4 người con. Ngoài Phương Dung ra còn một người con gái lớn và 2 người con trai. Cả hai người sau đều gia nhập binh chủng Nhảy Dù, trong số có một người tử trận tại Cổ Thành Quảng Trị vào mùa hè năm 1972.

Thân phụ Phương Dung là người xuất gia một thời gian từ khi còn trẻ. Tuy nhiên sự xuất gia này được cô giải thích là chỉ gieo duyên chứ không đi hẳn vào con đường tu hành. Điều này có nghĩa sau thời gian gieo duyên vài năm, ông trở về coi sóc vườn tược của gia đình. Riêng về việc Phương Dung muốn ca hát, ông tỏ ra rất ủng hộ cô trên con đường nghệ thuật.

“Ông nói rằng đi hát là một cái nghề rất là lương thiện, mà tự vì người dân của mình họ bảo thủ và có một cái nhìn sai lạc về những người làm nghệ thuật nói chung. Nhưng mà con đi hát thì phải biết mình là người yêu nghệ thuật mà đi hát chứ không phải sống một cuộc sống bừa bãi. Tự vì người nghệ sĩ mà không làm nghệ thuật giỏi và hay thì người ta đâu có thích. Và mếu nói theo Phật pháp người mà được người ta thương mến nhiều là người có tu nhiều kiếp lắm”, đó là nguyên văn lời Phương Dung kể về ông bố của mình đối với nghiệp cầm ca.

Tuy song thân Phương Dung sống theo lối cổ, mang nhiều ảnh hưởng của Nho học và thích thơ phú. Nhưng cả hai đều có đầu óc rất cởi mở. Có thể vì vậy Phương Dung ít ra cũng mang chút ảnh hưởng về nghệ thuật, về sự phóng khoáng trong tâm hồn khi tỏ ra rất thích đọc sách về thơ văn để hết lòng ngưỡng mộ nhà văn Nguyễn Tuân và say mê những tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.

Ngoài ra Phương Dung cũng rất thích những sáng tác thuộc loại văn chương “miệt vườn” của Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam hay Nguyễn Văn Ba… Trong lần tâm sự với người viết, Phương Dung cho biết nếu được đi lại từ đầu, cô vẫn thích theo đuổi con đường nghệ thuật. Nếu không thành ca sĩ cũng sẽ thành một nhạc sĩ hoặc một nhà văn hay một nhà đạo diễn điện ảnh.

Lý do dễ hiểu, Phương Dung là một con người mang một tâm hồn rất nhạy cảm nên dễ xúc động, chẳng hạn như trước những vần thơ hay mà cô thuộc nằm lòng. Phương Dung đã tỏ ra say sưa khi đề cập đến vấn đề này: “là một người tình cảm thì phải nhiều chứ. Như vậy, mới hát đuợc, mới sống được với trái tim của người khác. Như vậy mới có thể rung động trước những câu thơ như ‘Ta đem trái đất ngâm thành rượu, ta lấy càn khôn biến thành môi…’”

Khi còn theo học ở trường tiểu học nữ Gò Công, cô bé Phan Phương Dung nhiều tình cảm đã tỏ ra rất yêu thích ca hát và luôn có mặt trong các chương trình văn nghệ do trường tổ chức…

Sau khi học hết bậc tiểu học, gia đình cho Phương Dung lên Sài Gòn thi vào lớp Đệ Thất trường trung học Gia Long niên khóa 1958 – 1959. Sau khi thi, dù lúc đó không nuôi mộng trở thành ca sĩ để sống mà chỉ thích được ca, được hát cho hay như cô nói. Nhưng Phương Dung cũng đã tự một mình mò mẫm hỏi thăm đường đến tận đài phát thanh Sài Gòn sau khi biết được nơi đây sắp tổ chức một cuộc tuyển lựa ca sĩ.

Sau này Phương Dung cũng không biết tại sao mình đã bạo dạn như vậy. Chắc chắn không có lý do nào khác hơn là niềm say mê ca hát. Thời gian này tân nhạc Việt Nam đã có nhiều ca sĩ nổi tiếng, đang cộng tác với đài phát thanh Sài Gòn như Thu Hương, Tâm Vấn, Thái Thanh, Thanh Thúy, Lệ Thanh, Bạch Yến, Bích Chiêu…

Đó là những khuôn mặt Phương Dung nhìn thấy vào đài phát thanh một cách dễ dàng lúc đứng ngoài cổng nhìn vào. Trong khi “tôi đứng ở ngoài thì ông gác-dan ra hỏi: Này cô bé làm gì mà cứ thập thò ngoài này hoài vậy? – Thưa con muốn vào để lấy đơn dự thi ca sĩ . Ông biểu: Ngừng xe đạp đây vào trong phòng đó, để cái thẻ học sinh ở đây vào quẹo tay trái có ông nhạc sĩ nào đeo kính cận già già thì hỏi xin giấy tờ làm thủ tục dự thi ca sĩ”.

Cô bé tỉnh Gò Công mặc dù rất bỡ ngỡ, nhưng cũng theo lời chỉ dẫn của người gác dan vào gặp nhạc sĩ Võ Đức Tuyết. Khi Phương Dung cho biết ý định muốn dự thi hát của mình, cô đã được vị nhạc sư tên tuổi này đề nghị hát thử nhạc phẩm “Em Bé Quê” là bài Phương Dung sẽ dự thi. Nhờ đã quen đứng trước khán giả qua những buổi văn nghệ tại trường, Phương Dung đã không ngại ngùng gì đứng hát ngay giữa phòng, trước bao nhiêu người là những giọng ca nổi tiếng…

Nhưng may mắn chỉ đến với Phương Dung ở vòng sơ khảo và bán kết của cuộc tuyển lựa ca sĩ vào năm 1958 của Đài Phát Thanh Sài Gòn. Vì “vào chung kết thì Phương Dung rớt. Tại vì lúc mà cuối cùng họ đưa một cái bài bắt mình vừa phải vừa xướng thanh, vừa hát luôn, tất nhiên là mình phải biết rành về solfège mới làm được. Mấy người kia vì họ có đem theo đờn. Họ đờn, họ dượt nên họ hát hay. Còn mình hát thì có lỗi trong lúc mình xướng âm. Thành ra mình rớt… Mình chỉ được đứng hạng 4” .

Hai trong ba người được chấm đậu mà Phương Dung còn nhớ là ca sĩ Nhật Thiên Lan và nhạc sĩ Thanh Sơn. Người trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng sau đó và là tác giả của ca khúc từng một thời hầu như ai cũng biết tới là “Nỗi Buồn Hoa Phương”…

Tuy buồn vì không được lọt vào trong ba giải đầu, nhưng Phương Dung lại may mắn được giới thiệu với một nhạc sĩ nổi tiếng vào thời đó là Khánh Băng trong thời gian ông phụ trách chương trình văn nghệ cho giải trí trường Thị Nghè, là nơi xuất thân của không ít nghệ sĩ nổi tiếng.

Vì số tuổi còn nhỏ nên chỉ quen mặc đầm, Phương Dung tỏ ra hơi ngượng ngập trong chiếc áo dài đầu đời khi xuất hiện lần đầu tên trên sân khấu giải trí trường Thị Nghè. Nhưng do mê hát nên cuối cùng cũng đã vượt qua được những ngượng ngùng, e thẹn lúc ban đầu để dần dần gây được chú ý bằng tiếng hát của mình. Chỉ trong vài năm đầu tiên đi hát, Phương Dung đã mau chóng gặp những cơ hội tiến thân tại những địa điểm trình diễn mà trước đó nhiều nghệ sĩ tên tuổi đã đi qua.

Chẳng hạn như phòng trà Tứ Hải của ông Hoàng Cao Tăng, một thời là giám đốc đài phát thanh Pháp Á, là nơi Phương Dung hát “lót đường” vào năm 1959 cho những giọng ca đã có tên tuổi mà Thanh Thúy là một trong số này. Năm sau, 1960, cô về hát ở phòng trà Anh Vũ, là nơi trình diễn của rất nhiều nghệ sĩ như: Thanh Thuý, Khánh Ly, Trúc Mai, Bạch Yến, Bích Chiêu, Trần Văn Trạch, ban Tam Vân, Phương Lan, Quốc Thắng…

Vào thời gian này, vì đi hát nhiều và nhất là chỉ chú tâm vào niềm đam mê ca nhạc nên Phương Dung đã không có được đủ điểm trong những kỳ thi tam cá nguyệt nên chỉ theo học trường Gia Long được đúng một niên khóa. Sau đó cô chuyển qua trường Đức Trí và học tại trường tư thục này đến hết lớp 11 rồi nghỉ học luôn. Song song trong thời kỳ đó, Phương Dung cũng đã theo học tại Hội Việt – Mỹ đến hết lớp 6.

Ít ai còn nhớ và cũng không ngờ là thời kỳ hát ở Anh Vũ, Phương Dung lại là giọng ca chuyên trình bày những nhạc phẩm tiền chiến như Thiên Thai, Khối Tình Trương Chi, Trương Chi, Đàn Chim Việt, Suối Mơ, Buồn Tàn Thu… Nguyên nhân là cô đã được hướng dẫn trong thời kỳ đầu bởi nhạc sĩ Lê Trung Quân (cũng đi hát dưới tên Vân Quang), là một sĩ quan Không Quân, dạy cô hát theo giọng Bắc để trình bày những ca khúc tiền chiến. Cũng do đó, Phương Dung đã rất thích trước khi chuyển qua loại nhạc thời trang theo thị hiếu của khán thính giả và do các hãng đĩa nhạc yêu cầu, với các sáng tác của Lê Minh Bằng, Thanh Sơn, Châu Kỳ…

Nhưng phải công nhận từ khi chuyển hẳn qua nhạc tình cảm phổ thông có tính cách đại chúng, Phương Dung đã mau chóng thành công và được biết tới nhiều với những ca khúc như: Chuyện Tình Lan Và Điệp, Hai Kỷ Niệm Một Chuyến Đi, Hoa Nở Về Đêm, Những Đồi Hoa Sim…

Với nhạc phẩm Đường Về Khuya của người nhạc sĩ cùng gốc Gò Công là Lê Dinh, Phương Dung lần đầu tiên thu thanh tiếng hát mình trên đĩa nhựa. Kế đó là những nhạc phẩm Vọng Gác Đêm Sương, Hai Kỷ Niệm Một Chuyến Đi… rất được khán thính giả ưa thích.

Nhưng phải đợi đến năm 1962 khi nhạc phẩm Nỗi Buồn Gác Trọ ra đời thì tên tuổi Phương Dung thật sự đã bước vào một khúc quanh quan trọng, nhất là khi nhạc phẩm này được đưa vào phim “Saigon By Night” của hãng phim Alpha.

Trước sự ăn khách của Phương Dung, hãng đĩa Sóng Nhạc của ông Nguyễn Tất Oanh đã mời cô ký một giao kèo độc quyền vào năm 1964 với một giá rất cao vào thời đó là nửa triệu đồng. Mỗi tháng thu thanh 4 nhạc phẩm, dù không có bài để thu vẫn được trả lương.

Với Sóng Nhạc, Phương Dung tiếp tục làm say mê thính giả với tiếng hát cao chót vót của mình trong những ca khúc đã trở thành bất hủ như Huyền Sử Ca Một Người Mang tên Quốc (hát với Nhật Trường), Những Đồi Hoa Sim… Riêng Những Đồi Hoa Sim do Dzũng Chinh phổ nhạc từ thơ của Hữu Loan đã được dùng làm nhạc phẩm chính cho cuốn phim Tiếng Hát Nửa Khuya (“Songs At Night”) do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ thực hiện vào năm 1964.

Trong phim này Phương Dung đã được mời thủ diễn một vai quan trọng bên cạnh nam tài tử Huy Cường. Ngoài Những Đồi Hoa Sim, còn một vài nhạc phẩm khác do Phương Dung trình bày cũng được đưa vào cuốn phim này như Không Bao Giờ Ngăn Cách, Bóng Đêm,…

Đến năm 1965, Phương Dung chuyển qua trình bày nhiều nhạc phẩm của Trần Thiện Thanh và rất được khán thính giả yêu thích. Cũng trong năm đó, nhạc phẩm Tạ Từ Trong Đêm của Trần Thiện Thanh do Phương Dung trình bày đã đoạt giải Bài Hát Hay Nhất cùng với Huy Chương Vàng dành cho ca sĩ trình bày xuất sắc do Thanh Thương Hội trao tặng.

Ngoài ra cũng với Tạ Từ Trong Đêm, Phương Dung còn được tạp chí Sân Khấu của ký giả Nguyễn Ang Ca trao giải Nữ Ca Sĩ Được Cảm Tình Nhất Năm 65. Ngoài những sáng tác của Trần Thiện Thanh, tiếng hát Phương Dung còn được biết đến nhiều với những nhạc phẩm của Thanh Sơn, Hoàng Trang, Hồng Vân, Thu Hồ và đặc biệt những sáng tác của nhóm Lê Minh Bằng.

Từ giữa thập niên 60, Phương Dung đã trở thành một trong những giọng ca được mến mộ nhất với thể loại nhạc thời trang. Từ quê ra tỉnh, “Con Nhạn Trắng Gò Công” với tiếng hát đặc biệt của mình hầu như đã chinh phục tất cả mọi người. Riêng tại Sài Gòn, Phương Dung đã cộng tác liên tiếp trong những năm 1965, 66 và 67 mỗi đêm với 7 phòng trà và vũ trường. Đó là Tự Do, Maxim’s, Olympia, Quốc Tế, Bồng Lai, Paramount và Văn Cảnh. Đó là một thành tích hiếm có ca sĩ nào đạt nổi.

Phương Dung cũng nằm trong số những nữ ca sĩ quen thuộc của các chương trình đại nhạc hội. Cô còn thường xuyên xuất hiện trong những chương trình truyền hình hoặc cộng tác với những chương trình phát thanh trên cả hai đài Quân Đội và Sài Gòn.

Việc xây dựng hôn nhân đã đến với Phương Dung vào năm 1967 sau khi gặp người chồng tương lai một cách tình cờ tại Bangkok, Thái Lan, một năm trước đó trong một dịp sang đây hát. Vị đại sứ thời đó là em bà luật sư Trương Đình Du và là anh ruột của đạo diễn Võ Doãn Châu đã mời Phương Dung đến thăm tòa đại sứ Việt Nam Công Hòa tại đây.

Và chính tại đó Phương Dung đã gặp anh Võ Doãn Ngọc, hơn cô 13 tuổi, là người đã trở thành người bạn đời của cô sau đó. Ông Ngọc du học tại Pháp từ năm 13, 14 tuổi. Sau đó sang Thụy Sĩ làm việc và tình cờ gặp Phương Dung trong một dịp sang Bangkok nghỉ Tết với gia đình.

Sau lần gặp Phương Dung, ông Ngọc tự ý thôi việc để về Việt Nam xin cưới người mà ông đã cảm thấy rung động ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên. Đó cũng là lần thứ nhất ông Ngọc trở lại Việt Nam và lưu lại đây luôn cho đến khi cùng vợ và các con vượt biên.

Sau khi thành hôn, từ năm 1968, Phương Dung quyết định nghỉ hát trong khi tên tuổi vẫn đang trên đà lên cao. Lý do này được cô giải thích là: “tại vì lúc đó thật sự mà nói thứ nhất là Tết Mậu Thân kéo dài thì ông xã cứ nói, thôi mình lập gia đình cho rồi. Thì nghĩ thôi thì lập gia đình đi vì mình lúc bấy giờ đã 22, 23 tuổi rồi. Với lại thật tình mà nói là lúc đó cũng thấy cái tình cảm ông theo đuổi mình mình cũng cảm động nữa. Vậy cho nên mình lập gia đình trong thời gian đó cho rồi”.

Sau khi lập gia đình, Phương Dung cùng chồng theo đuổi ngành kinh doanh. Họ sở hữu một trại gà và một số tầu đánh cá ở Gò Công. Ngoài ra hai người còn điều hành một công ty xuất khẩu tôm đông lạnh nên cuộc sống vật chất rất thoải mái. Hai lần xuất hiện cuối cùng của Phương Dung đã diễn ra trong một chương trình đại nhạc hội tổ chức tại hai rạp Quốc Thanh và Hưng Đạo đã đánh dấu cho quyết định quan trọng của “Con Nhạn Trắng Gò Công”.

Sau đó, Phương Dung chỉ còn một sự liên hệ về ca hát qua những lần thu thanh cho hãng Continental của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cho đến năm 1975. Hai băng nhạc nổi tiếng của Phương Dung trong giai đoạn này là “Sơn Ca 5” và “Sơn Ca 11” dưới nhãn hiệu Continental đã đạt được một số bán rất cao.

Phương Dung cho biết vợ chồng cô không có những sở thích giống nhau. Lý do dễ hiểu là ông Ngọc là một người theo Tây học, chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hoá Tây phương. Trong khi Phương Dung là một người mang nặng tình cảm quê hương với nền văn hoá hoàn toàn Việt Nam. Nhưng theo cô, có thể nhờ vậy họ đã có được một sự bổ sung cần thiết cho nhau…

Và cũng nhờ thế, hai người đã sống một cuộc sống hạnh phúc cho khi ông Ngọc qua đời nmư 2017. Vợ chồng Phương Dung có với nhau tất cả 8 người con: 6 trai và 2 gái.

Hai năm sau khi xảy ra biến cố tháng 4 năm 75, hai vợ chồng Phương Dung và các con vượt biên bằng tàu của gia đình vào năm 1977. Họ tới được Mã Lai và được phái đoàn Mỹ nhận cho định cư ngay, nhưng vợ chồng cô từ chối để xin đi Úc.

Bây giờ nghĩ lại Phương Dung nhận biết đó là một quyết định sai lầm đối với một người muốn theo con đường ca hát, theo lời cô kể: “phái đoàn Mỹ nói, cô là ca sĩ mà. Ở bên Mỹ người ta gửi thư về đây nói rằng có một cô ca sĩ ở đây vì vậy chúng tôi cho cô đi Mỹ. Nhưng tại lúc đó mình nghe nói bên Úc người tỵ nạn được ưu đãi lắm, hơn nữa nước này có đất đai rộng rãi nên vợ chồng tôi quyết định xin định cư ở Úc. Nhưng bây giờ hối hận lắm. Thật ra cái nghề của mình là phải ở Mỹ vì có nhiều cơ hội lắm. Nhưng dù sao thì cũng có một bàn tay vô hình sắp đặt cho mình. Thành ra khi mà mình đã đi đâu cứ đi theo đi mình đừng đi ngược lại cái định mệnh đã an bài cho mình. Đi ngược lại mình gian nan, mình khổ lắm!”.

Từ đó Phương Dung càng tin ở số mệnh hơn để có được kinh nghiệm là số mệnh mình đã có từ lúc mình sanh ra cho tới khi trưởng thành. Được an bài, sắp xếp như thế nào thì cứ nên theo như vậy.

Gia đình Phương Dung tới Úc năm 1977 và cư ngụ ở Melbourne. Chỉ 8 tháng sau khi tới đây, hai vợ chồng cô đã đứng ra khai thác 2 nhà hàng có trình diễn ca nhạc là Cửu Long và Tự Do. Sau khi không còn khai thác nhà hàng vào năm 1983, Phương Dung nhận được lời mời sang Mỹ của nhạc sĩ Anh Bằng để thu cuốn băng đầu tiên tại hải ngoại mang tựa đề Kỷ Niệm Còn Đây, gồm 10 ca khúc tiêu biểu của Phương Dung.

Năm 1984, Phương Dung trở lại làm tổng đại lý những phim bộ Hồng Kông chuyển âm tiếng Việt. Nhưng chỉ được một thời gian vì quá vất vả và nhất là tiền bản quyền càng ngày càng cao, nên cô chuyển qua làm với một người con trong ngành may mặc. Đến năm 1989, 1990, Phương Dung hoàn tất thủ tục xin định cư tại Mỹ. Hai người con gái của cô đã đã có quốc tịch Mỹ trước đó. Riêng những người con trai vẫn sống tại Úc.

Từ khi sang Mỹ, Phương Dung cộng tác với trung tâm Asia, Thúy Nga với những ca khúc quen thuộc của thể loại nhạc thời trang ngày nào…

Sau đó Phương Dung đã trở về Việt Nam tham gia hoạt động văn nghệ ở trong nước từ sau năm 2010. Cô đặc biệt chú tâm vào những công tác từ thiện giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn cơ nhỡ.

Biên tập từ bài viết của cố nhà báo Trường Kỳ

Exit mobile version