Trong thi đàn Việt Nam, Nguyên Sa là một cái tên mang dấu ấn đặc biệt quan trọng, được nhiều người yêu mến và kính trọng bởi tài năng thơ ca thiên phú. Còn trong tân nhạc, Nguyên Sa cũng là cái tên quen thuộc khi rất nhiều bài thơ của ông đã được phổ thành những ca khúc bất hủ được nhiều thế hệ yêu thích.
Nhạc sĩ Song Ngọc là người đầu tiên phổ nhạc Nguyên Sa với ca khúc Tiễn Đưa, nhưng người nhạc sĩ nổi tiếng nhất với thơ Nguyên Sa là Ngô Thụy Miên với các bài hát quen thuộc: Áo Lụa Hà Đông, Tuổi Mười Ba, Paris Có Gì Lạ Không Em, Tháng 6 Trời Mưa. Ngoài ra còn có nhạc sĩ Anh bằng với Mai Tôi Đi, nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm với Tháng Sáu Trời Mưa, Cần Thiết…
Dòng dõi danh gia vọng tộc
Thi sĩ Nguyên Sa tên thật là Trần Bích Lan, sinh ngày 1/3/1932 trong một gia đình tri thức khá giả tại Hà Nội. Cha Nguyên Sa là ông Trần Văn Chi, một thương nhân, mẹ là bà Đoàn Thị Xuân. Nguyên Sa nguyên gốc là người Huế, ông cố là Thượng thư Trần Trạm, từng giữ tới chức Hiệp Tá Đại Học Sĩ (1 trong tứ trụ) dưới triều vua Tự Đức. Sau khi về hưu, ông cố Trần Trạm đưa cả gia đình về Hà Nội và phát triển gia nghiệp tại đây từ đời ông nội Nguyên Sa. Gia đình vốn theo đạo công giáo nên ngay từ nhỏ, Nguyên Sa đã được gửi theo học tại trường dòng Puginier, nay là trường THPT Việt Đức.
Cuộc kháng Pháp bùng nổ, trường dòng Puginer bị đóng cửa một thời gian, Nguyên Sa theo gia đình tản cư đi Hà Đông và tiếp tục theo học tại trường Văn Lang. Đến năm 1946, khi mới 14 tuổi, Nguyên Sa bị Việt Minh bắt giữ vì tội làm “Việt gian”. Tuy nhiên, theo hồi ký của Nguyên Sa, nguyên nhân là khi đó, cha ông đang làm việc trong ban kinh tài của Việt Minh. Vì lo sợ cha ông sẽ bỏ trốn nên họ đã giữ con trai để làm tin. Sau 8 tháng bị giam giữ, điều chuyển, Nguyên Sa được thả ra với lý do “bắt nhầm người”.
Năm 1948, cả gia đình Nguyên Sa trở về Hà Nội. Một năm sau, năm 1949, ông được gửi đi du học. Đến Pháp, Nguyên Sa bắt đầu theo học lớp 11 tại trường trung học Coulommiers (Seine et Marne). Tuy nhiên, do tuổi trẻ ham chơi, lại xa gia đình không có người kèm cặp, Nguyên Sa liên tục bị ở lại lớp. Gia đình phải chuyển ông qua nhiều trường khác nhau xa Paris để được học tiếp, từ Coulommiers sang trường Rambouillet, rồi trường Provins. Năm 1953, sau hơn 4 năm đến Pháp, cuối cùng Nguyên Sa cũng lấy được bằng tú tài và đăng ký vào khoa Triết học tại Đại học Sorbonne. Cũng trong năm này, Nguyên Sa bắt đầu gặp gỡ, hẹn hò với vợ là bà Trịnh Thuý Nga. Ông sáng tác hai bài thơ đầu tay là Tôi Sẽ Sang Thăm Em và Tiễn Biệt.
Sau khi hoàn thành chương trình học và nhận bằng cử nhân Triết Học vào cuối năm 1955, Nguyên Sa cùng vợ lên tàu trở về Việt Nam.
Từ năm 1956, Nguyên Sa tham gia giảng dạy môn triết học tại trường trung học Chu Văn An ở Sài Gòn. Để lo kinh tế gia đình, ông còn dạy thêm cả môn Pháp văn và dạy Triết tư tại nhà. Một thời gian sau, Nguyên Sa được giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch mời về dạy tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn cộng tác giảng dạy ở nhiều trường tư thục khác ở Sài Gòn như Văn Lang, Hưng Đạo, Thủ Khoa, Nguyễn Bá Tòng, Võ Trường Toản,… và cùng với vợ mở hai trường tư thục là Văn Học và Văn Khôi.
Năm 1960, Nguyên Sa thành lập tạp chí văn học Hiện Đại, một trong 3 tờ tạp chí nổi tiếng hàng đầu tại miền Nam khi đó.
Ngoài thời gian tham gia giảng dạy, ông còn viết bài cho tờ Sáng Tạo của nhà văn Mai Thảo, nhật báo Sống của Chu Tử, tờ Trình Bầy của Thế Nguyên,…
Năm 1966, khi đang mải miết với các hoạt động giảng dạy, sáng tác, Nguyên Sa bị gọi nhập ngũ. Sau khi vào học tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, ông được phân về làm việc tại cục quân nhu và giảng dạy tại trường Quốc Gia Nghĩa Tử trong gần 10 năm từ năm 1967 đến 1975. Thời gian này, ông vẫn tiếp tục sáng tác thơ, viết văn viết báo.
Do có hai người con đang du học tại Pháp vào thời điểm tháng 4 năm 1975, nên cả gia đình Nguyên Sa đã quyết định đến Pháp để đoàn tụ với con. Ngày 24/4/1975, Nguyên Sa cùng vợ rời khỏi Việt Nam. Đến Pháp, hai vợ chồng Nguyên Sa cùng nhận được học bổng theo học lớp Cao học kinh tế tại Đại học Pháp. Thời gian này, ông cộng tác với nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh và nhà văn Trần Tam Tiệp thành lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.
Sau 3 năm ở Pháp và nhận bằng cao học kinh tế, năm 1978, Nguyên Sa chuyển đến Mỹ, sống tại California. Tại Mỹ, Nguyên Sa thành lập trung tâm băng nhạc Đời và các tờ báo, tạp chí phát hành trong giới kiều bào gồm tạp chí Đời, Phụ Nữ Việt Nam và tuần báo Dân Chúng.
Ngày 18 tháng 4 năm 1998, thi sĩ Nguyên Sa qua đời sau thời gian dài chống chọi với căn bệnh ung thư dạ dày.
Nguyên Sa là ai?
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay?
Thi sĩ Nguyên Sa bắt đầu sáng tác khi đã bước qua lứa tuổi học trò, nhưng những vần thơ của ông luôn khiến người nghe xao xuyến, bâng khuâng, tê lặng bởi vẻ đẹp hồn nhiên, tinh khôi của ngôn từ và hình ảnh. Trong cuốn Nguyên Sa Hồi Ký, ông bộc bạch:
“Tôi thích được giới thiệu bằng cách đọc lên một bài thơ Nguyên Sa. Đó là cách giới thiệu được cả Nguyên Sa ý thức và vô thức, cho thấy bản ngã của người làm thơ tương đối đầy đủ nhất, cả bản ngã đã có, bản ngã đang có, và bản ngã muốn có. Những bài thơ khác biệt mang lại bản ngã khác biệt…”.
Không chỉ là một nhà thơ, Nguyên Sa còn là một nhà báo, một giáo sư triết học, một người thầy mẫu mực của nhiều thế hệ học trò Sài Gòn trước năm 1975. Từ lời bộc bạch trên, có vẻ như ông yêu nhất, thoả mãn nhất với con người thơ ca, lãng mạn trong mình.
Bút danh Nguyên Sa có nghĩa là hạt cát nguyên thuỷ ban sơ, cái tên khiêm nhường này được ông sử dụng từ khi bắt đầu làm thơ vào năm 1953 tại Pháp, với lời giải thích rằng với ông khi đó, mọi thứ đều là khởi đầu, khởi đầu từ số 0, hoàn toàn chưa có gì.
Sau này, khi viết báo, Nguyên Sa sử dụng thêm bút danh Hư Trúc. Hư Trúc là một trong 3 nhân vật chính nổi tiếng trong bộ tiểu thuyết Thiên Long Bát Bộ của tác giả Kim Dung, có ngoại hình xấu xí, tướng mạo thô kệch, mắt to mũi bự, tai vểnh miệng rộng, lông mày rậm rịch, trán dồ cao, tâm tính tốt bụng, hiền lành và thường làm theo bản năng. Giải thích cho sự lựa chọn này, Nguyên Sa nói rằng, Hư Trúc dù là một hoà thượng Thiếu Lâm, nhưng lại không phải là một người toàn tâm tu hành nghiêm khắc, mà là một con người có 2 bản ngã, hai cuộc đời. Ban ngày, Hư Trúc là người tu hành đạo hành, thuần thục, đầy ý thức nhưng khi đêm xuống, nhân vật này lại vô thức rơi vào những giấc mơ tình ái, hoan lạc đầy bản năng. Điều đó tương tự như đời sống của chính ông, một nhà thơ Nguyên Sa với những vần thơ bay bổng, lãng mạn, đầy tự do và một giáo sư triết học Trần Bích Lan (tên thật của Nguyên Sa) với những giáo điều, mô phạm, kỷ luật.
Như đã nói ở trên, Nguyên Sa bắt đầu sáng tác vào năm 1953, với hai bài thơ đầu tay là Tôi Sẽ Sang Thăm Em và Tiễn Biệt. Hầu hết các sáng tác trong thời gian ở tại Pháp của Nguyên Sa thời kỳ này đều là cảm hứng từ mối tình của ông với vợ là bà Trịnh Thuý Nga và nỗi buồn ly biệt sau khi tin tức về người cha đã qua đời ở Hà Nội được đưa tới. Đặc biệt nhất trong số đó bài thơ tên Nga dành tặng cô Nga với những vần thơ vô cùng hóm hỉnh, tinh nghịch và mới mẻ:
Và em sẽ cười phải không em
Em sẽ không buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Để anh giận sao chả là nước biển…
Từ năm 1956, sự trở về của Nguyên Sa từ Pháp với những vần thơ trong veo, lịm ngọt của ông đã thổi một luồng sinh khí mới mẻ, phóng khoáng và tươi trẻ vào làng văn nghệ Sài Gòn. Thơ Nguyên Sa đặc biệt được yêu thích và truyền tay nhau trong giới học trò, sinh viên và cả tri thức trẻ. Nhà báo Mặc Lâm, một cây bút kỳ cựu của tờ RFA đã đưa ra những nhận định khá xác đáng về ảnh hưởng của thơ Nguyên Sa thời kỳ này:
“Thơ Nguyên Sa nhanh chóng tràn vào từng lớp học, nơi trái tim học trò đập những nhịp điệu đầu tiên của tình yêu. Nguyên Sa yêu và chia sẻ cách yêu của mình qua kinh nghiệm một chàng trai có những thời khắc tuyệt vời tại Pháp, thủ đô của tình yêu trai gái, thủ đô của những dòng thơ trác tuyệt từng một thời là bệ phóng cho hàng trăm thi tài thế giới.
Nguyên Sa đem cái hồn phách của Châu Âu tái sinh sau khi thế ᴄhιến thứ II chấm dứt về Sài Gòn và nhanh chóng chiếm trọn sự cổ vũ nồng nhiệt của sinh viên học sinh. Ông đem ánh đèn vàng Paris nơi có những nhà ga là nguồn cảm hứng vô tận cho những cuộc chia tay. Ông mang theo hơi hám của sông Seine của nhà thờ Notre Dame về lại Sài Gòn nơi mà nhiều thế hệ thanh niên chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp.”
Trở về Sài Gòn, ngoài thời gian dạy triết học, pháp văn, viết các tác phẩm lý luận triết học, luận lý học, tâm lý học… Nguyên Sa còn là một cây bút rất tích cực của làng văn nghệ. Ông làm thơ, viết văn, truyện, báo,… để xuất bản và đăng trên nhiều tờ báo lớn nhỏ khác nhau. Rất nhiều những bài thơ tình của Nguyên Sa được các nhạc sĩ lựa chọn để phổ nhạc và trở thành nhạc phẩm nổi tiếng, rất được yêu thích, có thể kể đến như: Mai Tôi Đi (Anh Bằng), Paris Có Gì Lạ Không Em (Ngô Thuỵ Miên), Tiễn Đưa (Song Ngọc phổ nhạc từ bài Tiễn Biệt), Áo Lụa Hà Đông (Ngô Thuỵ Miên), Tuổi Mười Ba (Ngô Thuỵ Miên), Tình Khúc Tháng Sáu (Ngô Thuỵ Miên), Tháng Sáu Trời Mưa (Hoàng Thanh Tâm), Cần Thiết (Hoàng Thanh Tâm), Vết Sâu (Phạm Duy), Màu Kỷ Niệm (Phạm Đình Chương),..
Click để nghe Duy Trác hát Áo Lụa Hà Đông năm 1974
Có thể thấy những bài thơ của Nguyên Sa rất được các nhạc sĩ yêu thích, bởi ca từ giản dị, phóng khoáng, tự nhiên và giàu nhạc tính. Các nhạc sĩ khi phổ nhạc thường không phải sửa chữa câu từ quá nhiều, có thể bê nguyên cả đoạn thơ dài vào âm nhạc. Nhạc sĩ có nhiều “duyên nợ” nhất với thơ tình Nguyên Sa chính là nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên, người viết tình ca ngọt ngào và bay bổng nhất trong âm nhạc Việt. Ngô Thuỵ Miên từng tâm sự:
“Tôi đến với thơ Nguyên Sa, không từ một chọn lựa, mà vì tôi đã nhìn thấy mình trong thơ của ông, đã nghe những rung động thầm kín nhất của tuổi trẻ mình được ông tạo lên bằng những lời thơ ngọt ngào tình tứ, tươi mát. Cũng như bao nhiêu anh em thanh niên sinh viên học sinh của thập niên 60, tôi yêu và thuộc không ít thơ của ông.
Chúng tôi không có liên hệ gì ngoài sự cảm thông của hai con người cùng yêu nghệ thuật. Nói rõ hơn, tôi chỉ là một trong hàng triệu người yêu quý thơ ông, một người may mắn có thể gửi lời biết ơn giòng thơ tuyệt vời của ông qua những nốt nhạc giản dị, chân tình.”
Giai đoạn sau năm 1975, từ những biến cố thời cuộc đưa đẩy, Nguyên Sa di cư đến Pháp, rồi đến Mỹ, cuộc sống xứ người với những lo toan thường trực đã khiến thơ Nguyên Sa trở nên đậm đà, nhiều trăn trở và suy tư hơn trước. Bút lực của Nguyên Sa dù vẫn rất dồi dào, phóng khoáng và tươi trẻ nhưng nhắc tới tên ông người ta vẫn chỉ nhớ tới những bài thơ tình học trò, những bài thơ đã đi vào âm nhạc, đã lưu dấu một thời ký ức xa xưa.
Những tác phẩm đã xuất bản
Thơ: Thơ Nguyên Sa (Tổ Hợp Gió, Sài Gòn, 1957); Thơ Nguyên Sa tập II (Đời, California, 1988); Tập III (Đời, 1995); tập IV (Đời, 1998); Thơ Nguyên Sa toàn tập (Đời, 2000)
Truyện dài: Vài ngày làm việc ở Chung Sự Vụ (Tạp chí Trình Bầy, Văn Học, Sài Gòn, 1972; Đời in lại ở Cali, không đề năm); Giấc mơ (ba tập, Đời, Cali, 1992, 1993, 1994)
Truyện ngắn: Gõ đầu trẻ (Trình bầy, Sài Gòn, 1959), Mây bay đi (Tinh hoa miền Nam, 1967)
Triết học và văn học: Quan điểm văn học và triết học (Nam Sơn, Sài Gòn, 1960); Descartes nhìn từ phương Đông (Trình bầy, 1966); Một bông hồng cho văn nghệ (Trình bầy, 1971); Một mình một ngựa (Trình bầy, 1971)
Bút ký: Đông du ký
Nhận định: Hai mươi khuôn mặt nghệ sĩ Việt Nam ở hải ngoại (Đời, 1993)
Sách giáo khoa: Luận lý học, Tâm lý học (Tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1958)
Hồi ký: Nguyên Sa hồi ký (Đời, 1998); Cuộc hành trình tên là lục bát (Đời, 1999)
Niệm Quân (nhacxua.vn) biên soạn