Cuộc đời và sự nghiệp của ca sĩ Hà Thanh – Chim họa mi xứ Huế

Ca sĩ Hà Thanh tên thật là Trần Thị Lục Hà, sinh ngày 25/7 năm 1937 tại Liễu Cốc Hạ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Bà là con thứ tư trong một gia đình gia giáo có mười anh chị em mà chỉ có mình bà theo con đường ca hát. Là một người theo đạo Phật, từ nhỏ Lục Hà theo học Trường Nữ Trung học Đồng Khánh và đã hát trong chương trình Tiếng nói học sinh Quốc Học – Đồng Khánh trên Đài phát thanh Huế.

Năm 1953, trong cuộc tuyển lựa ca sĩ do Đài phát thanh Huế tổ chức, Lục Hà khi đó mới 16 tuổi tham dự và đoạt giải nhất với sáu nhạc phẩm rất khó, trong đó có bài “Dòng Sông Xanh” nổi tiếng của Johann Strauss, và tên bài hát đó đã trở thành nghệ danh của bà: Hà Thanh. Ngoài ra có thông tin cho rằng cái tên Hà Thanh cũng bắt nguồn từ tên thật của bà: Lục Hà – cũng có nghĩa là “dòng sông xanh”.

Sau đó ca sĩ Hà Thanh tiếp tục học và đi hát cho Đài phát thanh Huế trong ban Nắng Mới gồm Hồ Đăng Tín, Lê Gia Thầm, Nguyễn Văn, Hồng Dũ Trân, Hà Thanh…

Năm 1963, trong chuyến vào thăm Sài Gòn để thâu thanh cho hãng Sóng Nhạc, bà được nhạc sĩ Mạnh Phát giới thiệu và cho biết nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông muốn gặp gỡ và mời bà đến hát với ban nhạc Tiếng Thời Gian. Phần thể hiện ca khúc “Về Mái Nhà Xưa” của bà khiến toàn ban hài lòng. Sau đó, bà lại về Huế.

Không muốn để tài năng của Hà Thanh bị tàn phai, Nguyễn Văn Đông bèn viết thư mời bà trở vào Sài Gòn cộng tác với hãng đĩa Continental. Năm 1965, Hà Thanh chính thức gia nhập sinh hoạt ca nhạc ở Sài Gòn. Bà trở thành một trong những giọng ca hàng đầu của Sài Gòn khi đó. Vào giữa thập niên 1960, tiếng hát Hà Thanh thường xuyên hiện diện trên các Đài phát thanh Sài Gòn, Quân Đội, Tự Do, trong các chương trình Đại nhạc hội,… và rất thành công với những nhạc phẩm của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông như “Hàng Hàng Lớp Lớp”, “Chiều Mưa Biên Giới”.

Nhạc sĩ nhận xét: “Tôi cho rằng Hà Thanh không chỉ hát mà còn sáng tạo trong khi hát. Hà Thanh đã tạo thêm những nốt luyến láy rất truyền cảm, rất mỹ thuật làm cho bài hát của tôi thêm thăng hoa, trong giai điệu cũng như trong lời ca. (…) Hà Thanh có giọng hát thiên phú, cô hát rất thoải mái, dễ dàng, không cầu kỳ, không cường điệu, không gò bó nhưng nó cuốn hút ta đi trong cái bềnh bồng không gò ép đó.”

Trong giới văn nghệ Sài Gòn trước 1975, có nhiều người yêu thích Hà Thanh. Nhà thơ Bùi Giáng từng làm thơ ca ngợi nhan sắc của bà. Nhà văn Mai Thảo là một người rất si mê Hà Thanh, ông đã từng từ Sài Gòn ra Huế để xin cưới bà. Năm 1970, Hà Thanh kết hôn với Trung tá Bùi Thế Dung của Binh chủng Thiết Giáp. Năm 1972, hai người có một con gái là Kim Huyền.

Sau năm 1975, chồng Hà Thanh bị đi học tập cải tạo. Năm 1984, bà cùng con gái được gia đình bảo lãnh sang định cư tại miền Đông Hoa Kỳ. Năm 1990, vợ chồng Hà Thanh sum họp nhưng tan vỡ hai năm sau đó. Tại hải ngoại, Hà Thanh không trình diễn thường xuyên, chỉ cho ghi âm một số CD. Thỉnh thoảng Hà Thanh hát ở chùa, hát thiền ca trong màu áo lá sen sương khói.

Sau một thời gian bị ung thư máu, ca sĩ Hà Thanh qua đời vào lúc 19h27 ngày 1 tháng 1 năm 2014 tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts.

Tiếp theo đây, xin trích dẫn một vài ý của Trần Kiêm Đoàn viết về Hà Thanh:

“Chị Hà Thanh sang Mỹ năm 1984. Có những cây cầu đã gãy trong chiến tranh và những mối tình gãy đổ sau cuộc chiến. Trong cảnh “trải qua một cuộc bể dâu”, Hà Thanh tìm về với thiền học, thiền định và thiền ca. Những bản nhạc Thiền do Hà Thanh hát hoặc vừa phổ nhạc thơ thiền, vừa ca mang âm hưởng thâm trầm, gợi cảm mà gần gũi của nước “sông An Cựu nắng đục mưa trong” và sự lắng đọng thấm vào lòng người của hồi chuông Thiên Mụ.

Những khi buồn nhất và lắng lòng chiêm nghiệm từng vọng âm suy tưởng từ tâm mình, tôi lại thích nghe thiền ca do Hà Thanh hát. Giọng hát đậm đà còn mang cái gốc thanh âm giọng Huế của chị làm cho người nghe có cảm tưởng như đang nghe những lời tự tình của Huế. Nghe Hà Thanh hát thiền ca, người ta bỗng quên đi sự hiện hữu của thời gian đã làm cho đời phôi pha và quên luôn khoảng cách thời gian làm nên tuổi tác của chị. Một cảm giác thanh tân, tươi mát và lắng đọng đầy ắp lòng người chợt đến, chợt đi hay thấm đượm vào trong cảm xúc.

Nói về giọng hát thiên phú của Hà Thanh đã có rất nhiều văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ… nhiệt thành khen tặng. Một vị thầy âm nhạc của tôi ở trường Hàm Nghi Huế là nhạc sĩ Văn Giảng (cũng ký tên là Thông Đạt, tác giả Ai Về Sông Tương…) đã cho rằng, Hà Thanh là một ca sĩ tiêu biểu của Huế. Chị có một giọng hát thanh tao, quý phái với mức thể hiện cường độ và trường độ âm thanh vừa vặn, diễn cảm tuyệt vời. Đặc biệt là những luyến láy mềm mại rất có hồn và gợi cảm trong tiếng ca…

Nhân dáng, điệu bộ trình diễn và phong cách sinh hoạt đời thường cũng như trong hội diễn vẫn bị xem là một “đại nghiệp dĩ” của người ca sĩ. Chị sinh ra và lớn lên ở Huế. Huế được người đời nhớ nhung và yêu thương không chỉ vì Huế đẹp, Huế thơ mà còn vì Huế là vùng đất của nhiều tai trời ách nước; chịu nhiều oan khiên và đổ vỡ tan tác từ thuở công chúa Huyền Trân đổi mình cho Huế, áo xiêm phiêu bạt về Chiêm quốc.”

Về biệt danh “họa mi xứ Huế,” trong một bài viết đăng trên nhật báo Người Việt hồi Tháng Sáu năm ngoái, ca sĩ Quỳnh Giao viết như sau:

“Hà Thanh có được Huế cưng quý như vậy trước hết là nhờ giọng ca thiên phú, trong trẻo cao vút. Đây là một trong vài giọng soprano hiếm có của Việt Nam. Hà Thanh hát dễ dàng như hơi thở. Khi lên cao, giọng lồng lộng, thoải mái cho chúng ta cảm tưởng chiếc diều phơi phới trên nền trời xanh ngắt”.

“Vì sao lại so sánh với cánh diều? Chính vì chất giọng trong trẻo nhẹ nhàng làm mình liên tưởng đến trời xanh và nắng ấm”. Quỳnh Giao viết tiếp: “Vì trình độ thưởng ngoạn, nhiều người cứ khen làn hơi rất mạnh. Không thiếu gì ca sĩ thời nay hay khoe làn hơi ‘mạnh’ vì thấy hát trổ giọng lại càng được vỗ tay và huýt sáo vang lừng! Trong nghệ thuật thì khác, hát nhẹ và êm mà vẫn rõ lời mới là điều khó. Khi hát nhẹ, ca sĩ phải ‘kìm’ làn hơi để phả từ từ, nhẹ nhàng mà vẫn đều đặn. Khó nhất là lúc ngân cho câu nhạc nhỏ dần, đến khi chỉ bằng sợi tơ mong manh mà không đứt, không tắt”. Theo ca sĩ Quỳnh Giao, nhờ hát như vậy mà ca sĩ Hà Thanh được các nhạc sĩ sáng tác quý mến và yêu cầu bà hát những tác phẩm tim óc của họ.

Ca sĩ Quỳnh Giao cho biết tiếp, chính nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông để mắt xanh đến Hà Thanh ngay lần đầu được nghe bà từ Huế vào Sài Gòn thăm người em gái, đến phòng thu của hãng đĩa hát thử. Quả là nhạc của ông đã được giọng hát Hà Thanh chắp cánh bay cao.

Theo treweekly.com

Ca sĩ Hà Thanh qua đời vào ngày 1 tháng 1 năm 2014. Tại buổi lễ tưởng niệm, em gái của bà là Trần Thị Phương Thảo đã đọc sơ lược tiểu sử chính thức Hà Thanh như sau:

“Chị Hà Thanh tên thật là Trần thị Lục Hà, sinh ngày 25 tháng Bảy năm 1937, chánh quán làng Liểu Cốc Hạ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, nhưng sinh ra tại làng An Đô, nơi một nông trại của gia đình dưới chân dãy núi Trường sơn. Tên chị được cảm hứng từ một bài thơ cổ, nói lên phong thái thi vị của người xưa, vì Ba là nhà giáo Trần Kiêm Phổ, vừa là một nhà nho xuất thân từ trường Quốc Tử Giám:

Xuân du Phương Thảo địa,
Hạ thưởng Lục Hà trì.
Thu ẩm hoàng hoa tửu,
Đông ngâm bạch tuyết thi.

Thừa hưởng được giòng máu của Ba, uyên bác vừa hán học vừa tây học, và của Mẹ, đảm đang, nhân hậu biết thương người và rất sùng đạo Phật, nên chị Hà Thanh đã có một cuộc đời an nhàn thanh khiết của một Phật tử thuần chính. Khi còn nhỏ Chị đã gia nhập gia đình Phật tử Hương Từ, được đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiểt đặt cho pháp danh Tâm Tú và sau này thầy Nhất Hạnh gọi chị với cái tên Ka Lăng Tần Già.

Vào năm 1953, khi đài phát thanh Huế tổ chức tuyển lựa tài tử, chị chưa đủ 16 tuổi để dự thi, nhờ anh TK Tịnh khuyến khích và khai thêm tuổi nên mới được dự thi mà khỏi bị xếp vào hạng nhi đồng, và chị đã trúng giải nhất với bài hát rất khó là Giòng Sông Xanh, và từ đó cái tên Hà Thanh do chính chị tự đặt, nói lên tiếng hát từ một giòng sông. Cũng có thể đó là giòng sông An Cựu, trên đường Huyền Trân Công Chúa, nơi chị đã trau luyện âm nhạc và học đàn guitar với các bạn âm nhạc thời đó. Nhờ ông Ngô Ganh, lúc đó là giám đốc đài phát thanh Huế can thiệp ráo riết với Ba nên thỉnh thoảng chị mới được lên hát ở đài phát thanh Huế. Và cũng từ đó chị gia nhập ban nhạc trẻ Gió Mới với các bạn cùng lứa.

Năm 1963, nhân một chuyến viếng thăm Saigon, chị có cơ hội tiếp xúc với các văn nghệ sĩ, tiếng hát của chị đã được nhiều người ngùỡng mộ và chị đã nhanh chóng hội nhập vào giới văn nghệ Saigon. Chị bắt đầu hát ở các đài phát thanh Saigon, đài Quân Đôi, đài Tự do, trong các ban nhạc Tiếng Tơ Đồng, Tiếng Thời Gian, và được các hãng thâu thanh mời cộng tác như Sóng Nhạc, Việt Nam, Continental, Tân Thanh… Có một điều là chị không bao giờ hát ở phòng trà. Từ đó tiếng hát Hà Thanh được bay bổng khắp nơi trong giọng hát ngọt ngào tha thướt, đượm màu sắc mượt mà của đất Thần Kinh. Trước năm 1975 Chị đã tham gia vào nhiều đoàn văn nghệ đi trình diễn ở Châu Âu và Lào.

Năm 1970, chị lập gia đình với Trung Tá Thiết giáp Bùi Thế Dung, sanh hạ được một cháu gái, Kim Huyên, nay đã thành gia thất, và chị có được hai cháu ngoại.

Chị đến định cư tại Mỹ ở Boston từ năm 1984. Từ đó đến nay, trọng tâm hoạt động của chị là Đạo Ca và Từ thiện, hăng say tham gia văn nghệ tổ chức trong công tác từ thiện bất cứ ở đâu. Chị đã đi hát cho các chùa nhiều nơi trên khắp nước Mỹ, Canada và Châu Âu. Thời gian này chị hát và sáng tác nhiều bài về đạo Phật.

Trong cuộc đời đơn sơ khiêm tốn của một phật tử chí tâm, chị đã có hai sự lựa chọn, hai sự đam mê trên tất cả mọi thứ, đó là âm nhạc và kinh kệ, cả hai đều hoà hợp để đi đến chỗ tuyệt vời, không những đã đem lại sự bình an trong tâm hồn chị, mà còn truyền lại cho người đời những niềm vui, những niềm an lạc làm cho cuộc sống tươi thắm hơn, an bình hơn, lành mạnh hơn.

Chị Hà Thanh đã ra đi lúc 7g25 phút ngày 1 tháng 1 năm 2014 một cách nhẹ nhàng thanh thảng trong tiếng cầu kinh của các ni cô và của những người thân yêu, cũng như nghe chính tiếng tụng êm ái truyền cảm của chị, thì chắc chắn trong cái giây phút siêu thoát chị đã hưởng được những cái gì trong lành nhất để đưa linh hồn chị về cỏi Vĩnh Hằng.

Đó là tất cả tài sản mà chị Hà Thanh đã để lại cho chúng ta, mà rồi đây qua những tiếng hát, qua những bài cầu kinh sẽ còn lưu lại, văng vẵng bên tai làm tưởng nhớ lại những cái gì thoang thoảng nhẹ nhàng như chị Hà Thanh đang hát cho ta nghe từ một cõi hư vô nào đó. Chị Hà Thanh vẫn sống mãi nơi Đất Phật, và còn sống mãi với chúng ta”.

Exit mobile version