Trường ca Con Đường Cái Quan là bài trường ca nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy, được khởi soạn vào năm 1954 vào lúc Việt Nam vừa bị chia đôi bằng hiệp định Geneve. Trường ca này đã được hoàn tất phần đầu tại Paris khi tác giả đang du học tại Pháp, với niềm cảm hứng đã được ấp ủ từ hơn 10 năm trước đó, vào lúc ông vẫn còn là một kẻ du ca đi dọc khắp các nẻo đường Việt Nam.
Đường Cái Quan còn gọi là đường Thiên lý, là con đường dài chạy từ miền Bắc Việt Nam đến miền Nam Việt Nam, chủ yếu đắp vào đầu thế kỷ 19. Phần lớn đường Cái Quan năm xưa nay là Quốc Lộ 1A. Con đường Cái Quan có giá trị văn hóa lớn đối với người Việt, nói lên sự thống nhất của mọi miền đất nước và lịch sử Nam tiến của dân tộc.
Trong hồi ký của mình, nhạc sĩ Phạm Duy kể về hoàn cảnh sáng tác Con Đường Cái Quan như sau:
“Nhờ những ngày đi nghe giảng về khoa nhạc ngữ, tôi thấy mình có thể phát triển những đoản khúc dân ca lên thành những bản trường ca. Trước kia, tôi chưa bao giờ theo học một lớp nhạc nào cả và chỉ vô tình đem hơn một âm giai ngũ cung vào một ca khúc. Nay tôi hiểu rõ hiện tượng métabole nghĩa là sự chuyển điệu từ ngũ cung này qua ngũ cung khác khiến cho giai điệu của bất cứ nhạc phẩm nào cũng có rất nhiều cung bậc mà nghe ra vẫn là giai điệu Việt Nam.
Sau khi nắm được hiện tượng métabole và bí quyết soạn nhạc ngũ cung của Debussy rồi, tôi soạn ra mấy khúc đầu của Trường Ca Con Đường Cái Quan.
Trường Ca này là sự phản kháng của tôi trước sự chia cắt đất nước. Dù luôn luôn chối từ đóng những vai trò chính trị viên hay chính trị gia nhưng tôi không bao giờ bỏ lỡ cơ hội dùng văn nghệ để bày tỏ thái độ chính trị của mình”.
Sau khi từ Pháp trở về đến Sài Gòn, phải đến năm 1960 thì Phạm Duy mới hoàn tất phần còn lại của tác phẩm âm nhạc đồ sộ này, nhờ được kiến trúc sư Võ Đức Diên (chủ sự của tờ báo Sáng Dội Miền Nam) khuyến khích và giúp đỡ phương tiện đi lại để nhạc sĩ đi từ Sài Gòn đến vùng địa đầu Quảng Trị nhằm lấy cảm hứng và hoàn thành tác phẩm. Trường ca được in ra đầu tiên trên báo Sáng Dội Miền Nam với bản viết tay của tác giả.
Trường ca Con Đường Cái Quan gồm có 19 đoạn khúc, mỗi đoạn khúc đều nói về một cuộc du hành của người lữ khác. Nhạc sĩ Phạm Duy cho biết:
“Trường ca Con đường cái quan đưa ra một lữ khách đi trên con đường xuyên Việt, đi từ Ải Nam Quan là tỉnh đầu miền Bắc cho tới mũi Cà Mau là cuối cùng của Miền Nam, đi từ ngày mới lập quốc cho tới khi đã hoàn thành xứ sở, đi trong lịch sử và lòng dân, đi tới đâu cũng có tiếng dân chúng địa phương ca hát chúc tụng lữ khách đi nối liền được lòng người và đất nước.
Trường ca Con Đường Cái Quan gồm có ba phần:
Phần Thứ Nhất: Từ Miền Bắc, mang tính chất hào hùng của miền quê cha đất tổ.
Phần Thứ Hai: Qua Miền Trung, với tình thương yêu chan chứa niềm xót xa.
Phần Thứ Ba: Vào Miền Nam, tỏ sự vui mừng của con người đã cả thắng thiên nhiên để hoàn thành nước Việt…”
Hãy cùng đi vào từng phần của bài trường ca này:
Phần Thứ Nhất: Từ Miền Bắc
Nhạc sĩ Phạm Duy cho biết những ca khúc mạnh mẽ trong phần 1 – Từ Miền Bắc đã diễn tả sự hào hùng của người đi khai sơn phá thạch.
Đoạn khúc 1: Anh đi trên đường Cái Quan
Bản trường ca mở đầu với tiếng hát của những cô thôn nữ đang cắt cỏ thì thấy người lữ khách đi qua, cô tạm nghỉ tay để nhắn nhủ đến người đôi lời:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại
Dừng chân đứng lại
Cho em đây than đôi lời
Ði đâu vội mấy anh ơi…
Đó là lời hát gợi chuyện quen thuộc trong các bài dân nhạc đối đáp ở các miền phía Bắc. Người lữ khách kia cũng không chút gì quan ngại về cuộc hành trình còn dài chỉ vừa mới bắt đầu, anh dừng chân lại bên những cô gái trẻ và vui vẻ thổ lộ tâm sự như sau trong Đoạn khúc thứ 2 – Tôi đi từ ải Nam Quan:
Tôi đi từ ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ
Chia đôi một họ trăm con đã lên đường
Năm mươi người ngược núi rừng
Ðã dựng vòng biên ải
Năm mươi người trẩy theo sông tới khơi chừng
Tôi theo người vượt quan san
Ơi người ơi
Ơi người ơi
Vẽ lối mòn gìn giữ quê hương ngăn đường giặc Hán
Tôi chưa về Ải Chi Lăng
Ơi người ơi
Ơi người ơi
Dưới chiēn bào người thấy băn khoăn thương ai đầu nguồn…
Khởi đầu là tiếng hát vu vơ của những cô gái trẻ với âm điệu dịu dàng và thiết tha của dân ca cổ truyền miền Bắc, đến phần này đã chuyển sang âm điệu hùng hồn như một hành khúc, với những yếu tố lịch sử được lồng vào nội dung. Chàng trai kể rằng mình khởi hành từ Ải Nam Quan, cùng với 50 người ngược núi rừng, 50 người theo sông.
Ngay từ đầu, nhạc sĩ đã nói rằng người lữ khách đã đi trong lịch sử và lòng dân, và lịch sử ở đây chúng ta có thể nhận ra đó là truyền thuyết mẹ Âu Cơ. Lữ khách muốn đi trên một con đường để nối liền dân chúng và đất nước mà sau hàng ngàn năm, kể từ thời Âu Cơ cho đến thời Ngô đánh quân Nam Hán dành được độc lập.
“Dưới chiēn bào người thấy băn khoăn thương ai đầu nguồn” – Câu hát này gợi mở cho đoạn khúc thứ 3 về nàng Tô Thị. Người khoác chiēn bào nhưng nhớ thương người vẫn đứng đợi ở đầu nguồn, ngàn năm đã thành đá vọng phu.
Đoạn khúc 3: Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị đứng chờ đợi ai
Và khuyên người chẳng tái hồi
Cho ngàn năm được sống đời vọng phu…
Người lữ khách đã về đến thị trấn Đồng Đăng (thuộc tỉnh Lạng Sơn), Tại đây nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa vào một câu ca dao quen thuộc mà người Việt gần như ai cũng đã thuộc lòng:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lửa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”
Nhưng nàng Tô Thị ở đây khác trong truyền thuyết, nàng vẫn đứng chờ người ở đầu nguồn, nhưng lại khuyên người lữ khách đừng trở về (khuyên người chẳng tái hồi). Có lẽ bởi là vì trở thành đá và “sống đời vọng phu” đã như là một định mệnh của nàng, là sự chấp nhận hy sinh để chồng ra đi gìn giữ non sông bền vững.
Đoạn khúc 4: Người về miền xuôi
Dân thượng du:
Người về miền xuôi đem theo tình người miền núi
Nhà sàn lả lơi đứng bên đường hoang vắng soi
Ðưa chân anh qua đồi
Cơm lam đem theo người
Lên cao anh ôm trời
Ðể dòng suối lẻ loi…
Lữ Khách:
Ðường về ruộng dưới ngát hương củi rừng gạo núi
Vượt tầm đèo khơi thấy con đường lúa tươi cười
Ðường về miền xuôi biết bao đò bao quán mới
Ðường dài mà vui hỡi người bạn đường nặng vai
Rồi một ngày mai có qua nhịp cầu tả tơi
Nhìn bọt bèo trôi nhớ chăng mầu tóc xanh ngời…
Hát chung:
Ðường ngược đường xuôi
Nhớ nhau vì chuyện đầu môi
Tạm biệt một nơi
Thấy nhau ở cuối chân trời…
Người lữ khách lúc này đã tới thượng du và đi trong làng mạc của người dân bản xứ, và những người ở vùng núi rừng này cùng vui hát để tiễn đưa và ca ngợi lòng quả cảm của người lữ khách: “Lên cao anh ôm trời, để dòng suối lẻ loi…”
Lữ khách cũng đáp trả lòng thịnh tình của dân chúng bằng sự biết ơn và những lời hát ca tụng cái đẹp của vùng thượng du đất Bắc:
Ðường về ruộng dưới ngát hương củi rừng gạo núi
Vượt tầm đèo khơi thấy con đường lúa tươi cười
…
“Rồi một ngày mai có qua nhịp cầu tả tơi” – Nhịp cầu ở đây có thể hiểu là cầu nối của đất nước đã bị chia cắt, người lữ khách có niềm tin là sau này sẽ nối lại nhịp cầu dù đã tả tơi đi nhiều, rồi được trở về nhìn thấy lại cảnh cũ sẽ nhớ lại một thuở màu tóc còn xanh ngời, nhớ lại tình đồng bào giữa kẻ miền xuôi và người miền ngược của ngày hiện tại. Họ hẹn nhau một ngày như vậy ở cuối chân trời của ngày tương lai:
“Tạm biệt một nơi
Thấy nhau ở cuối chân trời…”
Đoạn khúc 5: Ngày người ơi
Lúc này người lữ khách đã về tới trung du, qua đèo ngang và gặp một cô lái đó, nghe cô hát:
Này người ơi ghé bến sang sông
Lên đường đi tới bõ công em chèo thuyền
Mừng người đi tìm thấy tình duyên
Con đường đất nước nối liền lòng dân.
Lữ khách:
Sông Thương ơi nước chảy đôi ba dòng
Anh về Hà Nội một lòng, lòng yêu em
Sông Thương ơi nước đục người đen
Anh về thành phố không quên cô mình.
Miền trung du có phong cảnh trù phú, nơi có dòng sông Thương tĩnh lặng trôi êm đềm. Qua bến đò ngang, người lữ khách nghe cô lái đò ca tụng về hành trình nối liền lòng người, và nàng cũng chúc cho người lữ khách “tìm thấy tình duyên” trên hành trình “nối liền lòng dân”.
Con sông Thương chảy qua các vùng Bắc Giang, Hải Dương. Qua con sông này sẽ về đến Hà Nội rồi, nhưng hẳn là chàng lữ khách sẽ vẫn vương vấn hoài bóng hình cô lái đò dù lam lũ nhưng vẫn giữ được nét duyên dáng và đằm thắm, sống cuộc đời quanh năm lặng lẽ cũng giống như là dòng Thương này đã ngàn năm trôi lững lờ.
Đoạn khúc 6: Tôi đi từ lúc trăng tơ
Lữ khách:
Ra đi từ lúc trăng tơ, trăng một miền hoa cỏ
Trăng lên đầu của ô xa vẫn chưa mờ
Im nghe lời Thủ Ðô chào, ôi lời mừng đông đảo
Ði trong lịch sử dân ta, luống nghẹn ngào.
Lữ khách và dân chúng thủ đô:
Hai bên nhà cửa thân yêu
Ơi người ơi
Ơi người ơi
Ðã mấy lần để đám rêu xanh thay mầu gạch ngói
Thăng Long buồn tủi chia phôi
Tháp, Tháp Rùa ơi
Tháp, Tháp Rùa ơi
Gió tiễn người về đến quê hương câu ca giọng hời.
Rời khỏi dòng sông Thương trong nỗi luyến tiếc vào lúc trời nhá nhem tối, khi trăng hãy còn tơ, lữ khách về đến Hà Nội trong nỗi mừng tủi. Về Thăng Long, nghe như vẫn còn phảng phất tiếng nói quân vương nghìn năm trước, thấy mình như đang đi trên dòng “lịch sử dân ta”, vừa tự hào, vừa luống những nghẹn nào khi nghĩ về hiện tại với những buồn tủi chia phôi.
Từ mươi năm qua dân chúng Hà Nội ly tán khắp các vùng, nhà cửa hai bên đầy rêu xanh mảng bám. Tất cả gợi lên một không gian quạnh hiu khơi gợi nhiều kỷ niệm.
Xin kết thúc bài phân tích phần 1 của Trường Ca Con Đường Cái Quan – Từ Miền Bắc này bằng bản thu âm năm 1965 sau đây:
Click để nghe
Toàn bộ bản trường ca được thâu âm lần đầu tiên năm 1965 bởi Ban Hoa Xuân của Đài Phát thanh Sài Gòn (với Thái Thanh, Duy Khánh và Kim Tước, Thái Hằng, Nhật Trường, Trần Ngọc… và nhiều người khác) và ban nhạc Nghiêm Phú Phi, Y Vân, Đan Thọ cũng với sự soạn hòa âm của nhạc sĩ người Đức, Otto Soellner, và cả nhạc sĩ Phạm Duy điều khiển dàn nhạc.
Mời các bạn đón đọc bài phân tích phần 2 – Qua Miền Trung của trường ca Con Đường Cái Quan.
Tác giả bài viết: Nguyễn Minh Phước & Nhạc Xưa
Hiệu đính: Đông Kha
Bản quyền bài viết của nhacxua.vn