Những hình ảnh hiếm của các nữ danh ca nổi tiếng nhất Sài Gòn đầu thập niên 1950

Đầu thập niên 1950, khi đất nước vẫn chưa bị ngăn đôi, làng nhạc Sài Gòn đã có một thế hệ nữ ca sĩ tài danh sinh hoạt văn nghệ ở đây, có thể kể đến là Minh Trang, Linh Sơn, Mộc Lan, hoặc từ miền Trung vào như là Ngọc Cẩm. Ngoài ra làng văn nghệ Sài Gòn còn đón nhận làn sóng di cư từ phía Bắc vào, trong đó có các nữ danh ca Thái Thanh, Thái Hằng, Khánh Ngọc, Tâm Vấn từ năm 1951, đến năm 1954 còn có Ánh Tuyết, Châu Hà từ Hải Phòng, Kim Tước từ Nam Định…

Nếu bạn là người yêu thích nhạc xưa, hãy theo dõi kênh YouTube này để nghe đọc các bài cảm nhận về âm nhạc (phân tích ý nghĩa, hoàn cảnh sáng tác, tiểu sử ca nhạc sĩ): LINK YOUTUBE  < Click

Sau đây xin nhắc lại những danh ca của làng văn nghệ Sài Gòn thời gian nửa đầu thập niên 1950 với những hình ảnh hiếm.

Thái Hằng

Trong số những nữ danh ca của tân nhạc Việt Nam nổi tiếng từ thời kỳ thập niên 1940, Thái Hằng là tên tuổi nổi bậc, dù cho sau đó bà không còn đi hát nhiều do muốn chu toàn cho gia đình, nhưng nhiều người vẫn nhắc tới bà với sự ngưỡng mộ cả về tài, đức và sắc vóc.

Ca sĩ Thái Hằng tên thật là Phạm Thị Quang Thái, sinh tại Hà Nội. Bà được biết đến với vai trò là vợ của nhạc sĩ Phạm Duy, chị ruột của danh ca Thái Thanh.

2 chị em danh ca Thái Hằng và Thái Thanh

Thái Hằng còn là thân mẫu của các ca sĩ nổi tiếng Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo và nhạc sĩ Duy Cường. Tên tuổi nữ danh ca Thái Hằng gắn bó với nhạc sĩ Phạm Duy và ban hợp ca Thăng Long thành một gia đình nghệ sĩ hàng đầu đã có những đóng góp lớn lao cho âm nhạc Việt Nam.


Click để nghe Thái Hằng hát Bà Mẹ Quê

Thái Hằng bắt đầu sự nghiệp ca hát trong những năm chống Pháp. Trong những năm ấy, bà cùng các anh em là nhạc sĩ Phạm Đình Chương, ca sĩ Thái Thanh… theo các đoàn văn công đi khắp các chĭến khu.

Đầu năm 1949 anh chị em Thăng Long gia nhập các ban văn nghệ quân đội của liên khu 4. Quán Thăng Long dời về chợ Neo (Thanh Hóa). Cũng tại quán Thăng Long này, nhan sắc và tiếng hát của Thái Hằng trở nên nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ kháng chĭến.

Cùng trong năm 1949, Thái Hằng kết hôn với nhạc sĩ Phạm Duy dưới sự chủ trì hôn lễ của tướng Nguyễn Sơn – lúc đó là tư lệnh liên khu 4.

Năm 1951, gia đình Phạm Duy – Thái Hằng di cư vào Sài Gòn, trở thành một trong những gia đình văn nghệ nổi tiếng nhất Sài Gòn với những người con là ca sĩ đã được nhiều thế hệ yêu mến: Duy Quang, Thái Hiền cùng ban nhạc gia đình mang tên Dreamers.

Tại Sài Gòn, vì muốn dành nhiều thời gian chăm sóc gia đình, danh ca Thái Hằng không còn đi hát nhiều, nhưng bà vẫn tham gia trong ban Thăng Long một thời gian, đồng thời cũng là một kịch sĩ có trong các vở thoại kịch phát trên đài phát thanh.


Click để nghe giọng hát Thái Hằng song ca cùng Thái Thanh năm 1951

Thái Thanh

Danh ca Thái Thanh là ca sĩ duy nhất trong nền âm nhạc Việt Nam từ cổ chí kim được ca tụng bằng rất nhiều những danh xưng vinh dự nhất, như là Đệ nhất danh ca, Tiếng hát vượt thời gian, Tượng đài âm nhạc,… mà không bị so sánh với bất kỳ giọng ca nào khác.

Danh ca Thái Thanh sinh năm 1934, cùng với chị ruột của mình là Thái Hằng, bà đã đi hát từ cuối thập niên 1940 với sự hỗ trợ của những anh chị trong gia đình, đặc biệt là nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Tuy nhiên sự nghiệp rực rỡ nhất của Thái Thanh là từ khi cùng gia đình vào định cư ở Sài Gòn sinh hoạt văn nghệ từ thập niên 1950, từ đó trở về sau đã trở thành tên tuổi sáng chói trong bầu trời văn nghệ miền Nam, giọng hát của bà có sự tương thích hoàn hảo với những ca khúc của nhạc sĩ Phạm Duy.

Nói về danh ca Thái Thanh, đã có rất nhiều bài vở ca tụng giọng hát của bà, sau đây xin đăng lại những bức ảnh hiếm quý bà vào thập niên 1950-1960:

Thái Thanh năm 19 tuổi (1953), khi vừa gia nhập làng nhạc Sài Gòn được không lâu

Khánh Ngọc

Nữ ca sĩ, minh tinh điện ảnh Khánh Ngọc sinh năm 1937, đã thành danh trong làng nhạc Sài Gòn từ những năm giữa thập niên 1950 đến đầu thập niên 1960. Ngoài nổi tiếng với vai trò ca sĩ, bà còn là một diễn viên điện ảnh nổi tiếng trước cả Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh… và là một trong những ngôi sao thuộc thế hệ đầu tiên của làng điện ảnh Sài Gòn cùng với những cái tên tài danh Trang Thiên Kim, Mai Trâm, Thu Trang…

Lâu nay, người ta hay nhắc đến Khánh Ngọc với vẻ đẹp quyến rũ và là vợ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương (em dâu của Thái Hằng và là chị dâu của Thái Thanh), nhưng cũng thật bất công khi ít người nhắc đến tài năng của bà trong cả âm nhạc lẫn điện ảnh.

Ca sĩ Khánh Ngọc tên thật là Hàn Thị Lan Anh, sinh năm 1937 trong gia đình có mẹ là người Việt, cha là người Minh Hương.

Thuở nhỏ, Khánh Ngọc theo học trường người Hoa cho đến trung học thì chuyển qua học chữ Pháp. Đến năm 1951, bà theo gia đình vào Nam. Nhờ học nhạc khi còn là nữ sinh và thụ giáo piano với nhạc sĩ Võ Đức Thu, khi vào Sài Gòn được theo học nhạc với đôi vợ chồng nghệ sĩ Dương Thiệu Tước – Minh Trang nên Khánh Ngọc bước vào làng văn nghệ rất sớm.

Khởi đầu sự nghiệp, ca sĩ Khánh Ngọc thường hát trong các chương trình phụ diễn tân nhạc khắp các rạp tại Sài Gòn là Nam Việt, Nam Quang, Văn Cầm, Đại Nam. Khi mới 14 tuổi, Khánh Ngọc hát trên đài phát thanh và trong các chương trình đại nhạc hội ở Sài Gòn và các tỉnh.

Năm 1953, Khánh Ngọc kết hôn với nhạc sĩ Phạm Đình Chương và gia nhập ban hợp ca Thăng Long, hai lần theo ban hợp ca này đi ngược ra Hà Nội biểu diễn trong đoàn Gió Nam. Nhờ khả năng diễn xuất hiện đại, tự nhiên của mình, Khánh Ngọc đem diễn xuất vào diễn tả những bản nhạc mà bà trình bày rất hấp dẫn. Ngoài ca hát, Khánh Ngọc còn là minh tinh điện ảnh, diễn vai chính trong các phim Ánh Sáng Miền Nam, Đất Lành, Ràng Buộc,.

Đang thăng hoa trong sự nghiệp âm nhạc và điện ảnh thì có một biến cố lớn đến trong đời, Khánh Ngọc chia tay chồng, bỏ lại hết những vinh quang, những yêu thương, những nỗi đau và lầm lỡ tại Việt Nam để sang Mỹ định cư từ đầu thập niên 1960.


Click để nghe Khánh Ngọc hát Giọt Mưa Thu

Mộc Lan

Mộc Lan là danh ca tiêu biểu của làng nhạc Sài Gòn từ cuối thập niên 1940 trở về sau. Thời gian đầu, tên tuổi của bà gắn liền với nhạc sĩ Châu Kỳ. Họ là đôi song ca – đôi vợ chồng nổi tiếng đã làm mưa làm gió tại các sân khấu từ miền Nam ra đến miền Trung, miền Bắc. Không chỉ nổi tiếng với giọng hát, Mộc Lan còn sở hữu nhan sắc mặn mà đã đi vào trong nhiều giai thoại âm nhạc, trong đó có câu chuyện nhạc sĩ Đoàn Chuẩn vì si mê nhan sắc của Mộc Lan trong một lần gặp gỡ khi Mộc Lan ra lưu diễn ở Hà Nội từ trước năm 1954. Khi trở về Sài Gòn, mỗi buổi sáng Mộc Lan đều nhận được một bó hồng từ nhạc sĩ Đoàn Chuẩn đặt gửi ẩn danh.

Đó chỉ là câu chuyện giai thoại 3 phần thực, 7 phần hư, tuy nhiên nhan sắc của bà thì đã được thể hiện rõ qua những tấm ảnh xưa. Trong ký ức nhiều người, Mộc Lan có giọng hát thiên phú và vẻ đẹp toàn diện từ “chân tơ đến kẽ tóc”, “da trắng như trứng gà bóc, răng đều tựa như hạt cườm, tay cứ như tay tiên”. Giọng hát mượt mà, mềm mại như liễu rũ, tiếng hát ấy không chỉ phủ sóng Sài Gòn phồn hoa mà còn khuấy đảo các sân khấu ca nhạc lẫn trong Nam, ngoài Bắc từ trước năm 1954. Nhưng có lẽ cũng vì vậy mà cuộc sống hôn nhân của Châu Kỳ – Mộc Lan nhanh chóng đổ vỡ. Sau 1975, Mộc Lan sống một mình và qua đời lặng lẽ vào năm 2015.


Click để nghe Châu Kỳ – Mộc Lan song ca 2 bài Chiều (Dương Thiệu Tước) và Sơn Nữ Ca (Trần Hoàn)

Minh Trang

Thời thập miên 1940, tân nhạc Việt Nam có nhiều danh ca có tên lót là Minh. Ở miền Bắc có Minh Đỗ, Minh Hoan, miền Trung có Minh Diệu, thì miền Nam có Minh Trang.

Thực ra Minh Trang sinh trưởng ở Huế trong gia đình hoàng tộc, nhưng bà đã vào định cư ở Sài Gòn và làm việc ở ban Pháp ngữ đài phát thanh Pháp Á trước khi trở thành một danh ca nổi tiếng. Vào cuối thập niên 1940, khi Thái Thanh, Thái Hằng, Tâm Vấn… và nhiều nghệ sĩ khác vẫn còn sinh hoạt văn nghệ ở miền Bắc, chưa di cư vào Nam, thì có thể xem Minh Trang là đệ nhất danh ca của Sài Gòn thời điểm đó.

Danh ca Minh Trang sinh năm 1921, và đến khoảng năm 1948 bà mới bắt đầu hát trong một dịp tình cờ. Trong những ca sĩ cùng thời, bà là người bắt đầu đi hát muộn nhất, nhưng vẫn tạo dựng được một sự  nghiệp rực rỡ.

Minh Trang lấy chồng năm 1943 và có 2 người con, trong đó có người con gái mang tên Đoan Trang, sau này là ca sĩ nổi tiếng Quỳnh Giao.

Người chồng thứ 2 của Minh Trang chính là Dương Thiệu Tước – một trong những nhạc sĩ thời kỳ đầu của tân nhạc, và đôi vợ chồng Minh Trang – Dương Thiệu Tước đã cùng nhau có những đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của tân nhạc Việt Nam thập niên 1950.


Click để nghe Minh Trang hát Đêm Tàn Bến Ngự

Ánh Tuyết

Nếu nhắc đến ca sĩ tên là Ánh Tuyết, người ta thường nghĩ đến ca sÁnh Tuyết có giọng hát thánh thót nổi tiếng với những ca khúc của Văn Cao, Đoàn Chuẩn từ những năm 1990. Tuy nhiên từ gần 40 năm trước đó, có một danh ca Ánh Tuyết khác có nét đẹp khả ái làm say lòng người, đã từng được nhà văn Hồ Trường An mô tả là “rung ngời ánh sáng, ngát lịm âm ba vang xa”.

Ánh Tuyết là một phụ nữ Hải Phòng, và nhan sắc của những người con gái đất cảng đã nổi tiếng suốt cả thế kỷ qua, nên dễ nhận thấy qua tấm hình dưới đây, đó là Ánh Tuyết có một vẻ đẹp thật sắc sảo.

Nhà văn Hồ Trường An đã viết về Ánh Tuyết như sau:

“Nàng bước lên sân khấu phòng trà rực rỡ, giọng hát đẹp tuyệt như tấm gấm đại hồng thuê hoa mặt nguyệt bằng ngân tuyết xen kim tuyến, lại thêm lối ăn mặc trau chuốt, yêu kiều, nét mặt duyên dáng làm xao xuyến bao nhiêu trái tim những tao nhân mặc khách”

Ca sĩ Ánh Tuyết tên thật là Hoàng Bạch Tuyết, sinh năm 1935 tại Hải Phòng, có năng khiếu ca hát từ nhỏ. Một người chú của Ánh Tuyết là ông Năm Phát, trưởng ban Lửa Hồng, đã phát hiện ta tài năng của cô cháu của vợ mình, nên đã luyện giọng và đưa Ánh Tuyết vào ban Lửa Hồng, rồi hát trên đài phát thanh Hải Phòng.

Năm 1954, Ánh Tuyết di cư vào Sài Gòn, xuất hiện trong các đại nhạc hội và trên đài phát thanh, sau đó cộng tác với hầu hết các phòng trà, vũ trường nổi tiếng cùng các ban nhạc Hoàng Thi Thơ, Xuân Lôi, Hoàng Trọng, Võ Đức Tuyết.


Click để nghe bài Tôi Yêu qua giọng hát 2 nữ danh ca: Ánh Tuyết – Thái Hằng

Năm 1959, khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp ở Sài Gòn, Ánh Tuyết lấy chồng là ông Tôn Thất Tu, một sĩ quan thời đó, rồi chuyển ra Huế sinh sống, bỏ sau lưng nghiệp hát trong niềm nuối tiếng của khán giả hâm mộ, những người yêu mến cả giọng hát lẫn nhan sắc của bà.


Click để nghe Ánh Tuyết hát Ánh Đèn Màu

Tuy nhiên sau đó cuộc hôn nhân đổ vỡ, Ánh Tuyết trở lại Sài Gòn, trở lại với sân khấu với Ánh Đèn Màu – tên ca khúc đã gắn liền với Ánh Tuyết thời gian đó. Ở phòng trà Bồng Lai, hàng đêm Ánh Tuyết đứng trên sân khấu, từ giữa thập niên 1960, bên dưới có một chàng sĩ quan trẻ điển trai người Mỹ luôn chăm chú lắng nghe cùng vưới một nụ hồng trắng dành cho nữ ca sĩ khả ái.

Hàng bao nhiêu đêm như vậy, dù chàng có mặt hoặc đang công tác ở miền biên địa xa xôi nào đó, bằng một cách nào đó, Ánh Tuyết vẫn nhận được một nụ hồng trắng. Cho đến năm 1967, Ánh Tuyết gật đầu trước lời cầu hôn của chàng sĩ quan kia và theo chồng sang Mỹ, chính thức vĩnh viễn rời bỏ ánh đèn sân khấu của Sài Gòn.

Linh Sơn

Có lẽ với đa số những người yêu nhạc, cái tên Linh Sơn còn rất lạ lẫm, thậm chí là lần đầu được nghe tới. Tuy nhiên vào đầu thập niên 1950, Linh Sơn là một trong những nữ ca sĩ quen thuộc nhất ở trên đài phát thanh Pháp Á. Trong nhiều cuộc nói chuyện, các nhạc sĩ xưa thường nhắc đến Linh Sơn như là người đầu tiên hát ca khúc của mình. Lúc sinh thời, nhạc sĩ Lê Dinh kể rằng sáng tác đầu tiên của ông được thu âm và phát thanh là Quê Mẹ, và người hát chính là nữ ca sĩ Linh Sơn. Ngoài ra Linh Sơn cũng là người đầu tiên hát ca khúc nổi tiếng Gái Xuân của nhạc sĩ Từ Vũ trên đài phát thanh Pháp Á, trước cả danh ca Tâm Vấn – là người thành công nhất với ca khúc này.

Ca sĩ Linh Sơn sinh năm 1936 tại Nghệ An và lớn lên tại Sài Gòn. Khi còn là nữ sinh, Linh Sơn đã có năng khiếu về nghệ thuật, say mê điện ảnh, thường hay trình diễn các tiết mục tân nhạc hoặc đóng kịch trong các dịp liên hoan cuối niên khóa tại khắp các trường từng theo học như Đồ Chiểu, Tân Dân, Việt Nam Học Đường, Vương Gia Cần.

Linh Sơn năm 14 tuổi

Năm 14 tuổi (1950), Linh Sơn đăng ký thi tuyển lựa ca sĩ của đài phát thanh Pháp Á và được giải Nhì, từ đó mở ra con đường ca hát. Bà được nhạc trưởng Trần Văn Lý dìu dắt trong ban Nhi đồng đài Pháp Á, trình diễn hàng tuần trên làn sóng điện. Vốn có sẵn giọng hát êm dịu, lại thêm cố gắng rèn luyện và được các nhạc sĩ Văn Thanh dạy vỡ lòng về nhạc lý, nhạc sĩ Võ Đức Tuyết và Dương Thiệu Tước bổ túc những kinh nghiệm chuyên môn, nên không bao lâu Linh Sơn đã trở thành một ca sĩ nổi tiếng, được khán giả Sài Gòn đón nhận nồng nhiệt.

Thập niên 1950, Linh Sơn đã hợp tác với các ban nhạc Văn Phụng, Hạc Thành, Lôi Tiên, Gió Bắc, Võ Đức Tuyết… và các ban kịch Hoàng Hải, Vũ Huyến, Châu Kỳ.

Ngọc Cẩm

Thập niên 1950, có 3 đôi song ca nổi tiếng nhất và nhận được nhiều mến mộ nhất của khán giả nghe nhạc ở Sài Gòn. Có một điều trùng hợp, đó là cả 3 đôi song ca này đều là vợ chồng và có liên quan đến xứ Huế, đó là Châu Kỳ – Mộc Lan, Mạnh Phát – Minh Diệu và Nguyễn Hữu Thiết – Ngọc Cẩm. (Châu Kỳ, Minh Diệu và Ngọc Cẩm là người Huế).

Ca sĩ Ngọc Cẩm tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Tuyết, sinh năm 1930 ở Phú Vang – Thừa Thiên. Bà gặp và kết hôn với nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết khi cả 2 cùng sinh hoạt văn nghệ ở chiến khu Tuyên Hóa. Lúc đó là năm 1948, khi bà Ngọc Cẩm mới 17 tuổi.

Năm 1954, cả 2 bỏ về Huế và trở thành một đôi song ca rất được yêu thích trên đài phát thanh Huế. Nhưng rồi mảnh đất Thần kinh nhỏ hẹp, không đủ chỗ vẫy vùng cho đôi uyên ương này nên họ cùng nhau vào Sài Gòn và được khán giả đón nhận nồng nhiệt, thường được gọi là “Đôi song ca miền thùy dương”, hoặc “Đôi danh ca miền Trung”, được xem là đôi song ca nổi tiếng nhất của tân nhạc Việt Nam.

Trong tờ nhạc của Tinh Hoa Huế phát hành năm 1954 đã giới thiệu đôi uyên ương này là: Với giọng hát trầm hùng của bạn Nguyễn Hữu Thiết, trong thanh của cô Ngọc Cẩm – đôi danh ca xứ Huế đã từng biểu diễn qua các tỉnh miền Nam Trung Việt rất được hoan nghênh về những nhạc phẩm loại dân ca.


Click để nghe nhạc Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết

Tuyết Mai

Tuyết Mai là một trong những nữ ca sĩ nổi tiếng ở Sài Gòn từ thập niên 1950, tuy nhiên hiện nay không có nhiều người nhớ đến, và thông tin về Tuyết Mai cũng rất hạn chế. Người ta thường biết đến bà với vai trò là người vợ đầu tiên của danh ca nhạc vàng Duy Khánh.

Nhà văn Hồ Trường An đã mô tả về Tuyết Mai như sau:

“Giọng hát trong trẻo và ngọt ngào rất quyến rũ. Khi lên cao, chị chuyền giọng óc không khéo như Thái Thanh, nhưng không quá vụng như Hoàng Oanh sau nầy. Dù không có giọng kim cùng cách phân phối và dàn trải làn hơi một cách tinh vi như Mai Hương, nhưng về sau nầy Tuyết Mai nhiều lần hát bản “Dòng Sông Xanh”, nghe cũng ngọt tai. Phải nói rằng đây là một giọng có âm sắc đẹp, gợi nhiều ấn tượng và hình ảnh đẹp cho thính giả. Chị hát dân ca đạt hơn hát những loại nhạc vũ trường, nhạc biệt thể, nhạc bán cổ điển Tây phương. Chị song ca với Duy Khánh thật điệu nghệ. Chị có vóc vạc vừa tầm, khuôn mặt khá xinh, ăn ánh đèn sân khấu, cho nên nhan sắc chị dưới ánh đèn sân khấu trội hẳn lên. Trong thập niên 50, chị là một nữ ca sĩ rất ăn khách và xuất hiện thường xuyên trên sân khấu Đại Nhạc hội. Đêm đêm, chị như con bướm bay từ phòng trà này sang phòng trà khác.”


Click để nghe 1 số bản thu âm của Tuyết Mai thập niên 1960

Thập niên 1950, Tuyết Mai kết hợp với Duy Khánh tạo thành đôi song ca rất ăn khách, nổi tiếng bên cạnh các đôi song ca (và cũng là vợ chồng) khác là Châu Kỳ – Mộc Lan, Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết. Họ thường hát những ca khúc mộc mạc đậm tình quê hương, như là Tía Em Má Em, Vợ Chồng Quê, Trăng Soi Duyên Lành…


Click để nghe song ca Duy Khánh – Tuyết Mai hát bài Vợ Chồng Quê của nhạc sĩ Phạm Duy

Đông Kha (nhacxua.vn) biên soạn

Exit mobile version