Nhạc sĩ Thu Hồ và hoàn cảnh sáng tác ca khúc “Quê Mẹ” – Đêm khuya trăng mơ, mắt trông về trong cõi xa mờ…

Nhắc đến nhạc sĩ Thu Hồ, chúng ta thường nhớ đến ca khúc Quê Mẹ, là ca khúc đầu tay và cũng là ca khúc nổi tiếng nhất trong sự nghiệp của ông, đồng thời được xem là một trong những bài hay nhất viết về mẹ, có lời ca thật tha thiết:

Nếu bạn là người yêu thích nhạc xưa, hãy theo dõi kênh YouTube này để nghe đọc các bài cảm nhận về âm nhạc (phân tích ý nghĩa, hoàn cảnh sáng tác, tiểu sử ca nhạc sĩ): LINK YOUTUBE  < Click

Đêm khuya trăng mơ mắt trông về trong cõi xa mờ
Nơi xa xăm kia tôi say nhìn quê cũ dấu yêu
Ôi tình quê hương nơi chốn xưa có người mẹ hiền
Tóc màu hoa bạc chiều chiều mắt ngấn lệ vì con…


Click để nghe Hoàng Oanh hát Quê Mẹ trước 1975

Năm 1943, sau 5 năm rời xa quê hương miền Trung vào Nam tha phương để mưu sinh, nhạc sĩ Thu Hồ, lúc đó 24 tuổi, trở thành trưởng ga luân phiên của ga xe lửa Dầu Giây. Thời gian đó, trong nỗi niềm nhớ về quê hương, nhớ mẹ già, cùng với cảm tác từ câu ca dao quen thuộc là “chiều chiều ra đứng ngõ sau, trông về QUÊ MẸ ruột đau chín chiều”, ông đã sáng tác thành một ca khúc có sức sống bền bỉ suốt gần 80 năm qua.


Click để nghe Ngọc Cẩm hát Quê Mẹ thập miên 1950

Ra đi con dâng đời cho gió mưa
Quê người ngồi nhớ đến ngày vui qua
Gió chiều thường nhắc khúc ca biệt ly
Cố nhìn quê cũ lẩn trong sương mờ

Mẹ ơi ra đi đời con sá chi
Mơ ngày ngồi dưới ánh đèn lâm ly
Bên mẹ thường hát khúc ca ngày đi
Ai ngờ rồi cũng đến khúc phân ly

Những người con khi đã trưởng thành đều phải rời xa vòng tay mẹ, như là những cánh chim trời tung cánh bay đi bốn phương để xây đời mới. Ở nơi xa xôi, người con lúc nào cũng cảm thấy xót xa mỗi khi nhìn về quê cũ, vì biết rằng nơi đó luôn có người mẹ già đang mòn mỏi ngóng chờ. Tình mẫu tử như là sợi dây kết nối vô hình để tâm trí người mẹ luôn luôn hướng về con ở nơi xa ngàn dặm, và ngược lại.

Ca khúc Quê Mẹ đã nói thay được nỗi lòng của biết bao nhiêu người có chung hoàn cảnh xa quê, đặc biệt gần 10 năm sau khi bài hát được ra đời cũng là thời điểm mà đã có hàng triệu người Việt phải rời xa quê hương để đến một vùng đất mới, và khi đó thì nỗi niềm trong bài hát Quê Mẹ của nhạc sĩ Thu Hồ lại càng được nhiều người thấu hiểu…

Nhạc sĩ Thu Hồ tên thật là Hồ Thu, sinh năm 1919 tại làng Tân Mỹ, gần cửa biển Thuận An thuộc tỉnh Thừa Thiên. Ông là một trong những ca sĩ thế hệ đầu tiên hát tân nhạc, từ năm 17 tuổi đã được xuất hiện trước khán giả để hát bài nhạc Tây “La chanson du gondolier”, được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Thời gian sau đó, ông chuyển sang hát nhạc Việt và nổi tiếng trên làn sóng phát thanh từ cuối thập niên 1940.

Ca sĩ – nhạc sĩ Thu Hồ đã bộc lộ được năng khiếu về nhạc và thơ khi mới 12 tuổi. Ông theo học trung học tại trường dòng Pellerin thuộc giáo hội Thiên Chúa La Mã nằm bên bờ sông Hương. Đây cũng là ngôi trường thuở thiếu thời của rất nhiều người nổi tiếng là tổng thống thống Ngô Đình Diệm, nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, thi sĩ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, nhà văn Thanh Tịnh (tác giả Tôi Đi Học)… Ngày nay ngôi trường này là Học Viện Âm Nhạc Huế.

Trường Pellerin năm 1920

Thời đi học, Thu Hồ ở trọ nhà của ông bác họ, là thân phụ của nhạc sĩ Trần Văn Lý – trưởng ban nhạc hoàng gia từ thời vua Khải Định. Thời gian sau đó Trần Văn Lý còn thành lập ban nhạc mang tên mình, là ban nhạc nổi tiếng nhất của tân nhạc Việt Nam thập niên 1940. Hầu hết những bản thu âm thời kỳ này của các danh ca Ái Liên, Minh Diệu, Minh Trang… đều là hát với ban nhạc Trần Văn Lý.

Nhờ có dịp ở chung với người anh họ nổi tiếng Trần Văn Lý nên Thu Hồ được hướng dẫn nhạc lý trong những bước đầu tiên để sau đó trở thành ca sĩ.

Năm 1938, khi mới 19 tuổi, Thu Hồ phải tha phương cầu thực ở miền Nam. Năm 1943, ông trở thành trưởng ga hỏa xa luân phiên ở Dầu Giây, rồi sau đó trở thành thư ký bút toán ngân hàng Đông Dương. Thời gian này xa quê, nhớ gia đình, ông sáng tác ca khúc nổi tiếng nhất trong sự nghiệp của mình là Quê Mẹ.


Click để nghe Hoàng Oanh hát Quê Mẹ sau năm 1975

Năm 1947 tại Sài Gòn, 2 nhạc sĩ Châu Kỳ – Mạnh Phát thành lập Thần Kinh Nhạc Đoàn, quy tụ những tên tuổi nổi tiếng là ca sĩ Minh Tần, Kim Nguyên, Linh Sơn, và dĩ nhiên là không thể thiếu 2 đôi song ca, đôi vợ chồng nổi tiếng là Mạnh Phát – Minh Diệu và Châu Kỳ – Mộc Lan, hợp tác cùng ban nhạc Trần Văn Lý. Lúc này Thu Hồ cũng là một ca sĩ chủ chốt của Thần Kinh Nhạc Đoàn, tiền thân của ban Tiếng Thùy Dương sau này.

Năm 1948, Thu Hồ được mời cộng tác với đài phát thanh Pháp-Á ở góc đường De Lattre de Tassigny – La Somme (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Hàm Nghi), khi mở thêm mục Tân nhạc Việt Nam. Kể từ đó giọng hát Thu Hồ được phát thường xuyên trên sóng phát thành và được nhiều người biết đến. Năm 1949, từ đài phát thanh Pháp-Á, Thu Hồ là người đầu tiên hát ca khúc Trăng Mờ Bên Suối của nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên.

Từ năm 1956, đài phát thanh Pháp-Á được chuyển giao lại cho chính quyền VNCH để trở thành Đài Phát Thanh Sài Gòn, nhạc sĩ Thu Hồ vẫn tiếp tục hợp tác với đài phát thanh này, sau đó cộng tác thêm với với Đài Quân Đội.

Thu Hồ gia nhập Quân đội năm 1954 và giữ chức vụ Trưởng ban Tuyên truyền lưu động Đệ I Quân khu, đã đi nhiều nơi để ủy lạo binh sĩ. Trong một dịp đi về vùng Tây Nam Bộ, ông viết bài Khúc Ca Đồng Tháp với phần lời ca của Trọng Danh. Năm 1957, ông gia nhập ban văn nghệ Vì Dân của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc gia do nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông làm trưởng đoàn. Vài năm sau đó, chính Thu Hồ là người phát hiện ra giọng hát Giao Linh và giới thiệu cho nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông để lăng xê trở thành một trong những nữ ca sĩ nhạc vàng được yêu thích nhất từ đó cho đến nay.

Từ năm 1959 đến năm 1970, nhạc sĩ Thu Hồ là giáo sư Âm nhạc các trường Trung học tư thục nổi tiếng ở Saigon như Nguyễn Bá Tòng, Thánh Thomas, Thiên Phước, Nguyễn Trường Tộ…

Thời gian này, Thu Hồ còn là diễn viên kịch, đồng thời cũng là nhà soạn kịch nổi tiếng, đóng vai chính trong nhiều vở kịch do chính ông soạn. Ban kịch nói Thẩm Thúy Hằng cũng mua bản quyền nhiều kịch bản của Thu Hồ để diễn trên đài truyền hình.

Nhạc sĩ Thu Hồ là một con chiên ngoan đạo, lớn lên học trường dòng, sau đó ông soạn nhiều bài thơ mang sắc thái Công giáo và xuất bản thành tập thơ mang tên Ánh Bình Minh năm 1965. Ông cũng là thành viên trong ủy ban sáng lập Nhà thờ Fatima Bình Triệu.

Nhạc sĩ Thu Hồ có 2 người con gái nổi tiếng là ca sĩ Mỹ Huyền và xướng ngôn viên Mỹ Hà, từng làm việc ở Đài Phát Thanh Sài Gòn ban Anh ngữ. Chồng của Mỹ Hà là tài tử nổi tiếng Trần Quang.

Sau năm 1975, nhạc sĩ Thu Hồ bị kẹt lại Việt Nam, đến năm 1990 thì được con gái Mỹ Hà bảo lãnh sang San Diego, Hoa Kỳ, Năm 1992 ông dời về Santa Ana để sống cùng Mỹ Huyền cho đến khi qua đời năm 2000.

Nhạc sĩ Thu Hồ (ngồi giữa)

Đông Kha (nhacxua.vn) biên soạn

Exit mobile version