Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn có tên chính thức là Vương cung thánh đường Chính toà Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, tên tiếng Anh là Immaculate Conception Cathedral Basilica, tên tiếng Pháp: Cathédrale Notre-Dame de Saigon. Đây được xem là một “phiên bản kiến trúc” của Nhà Thờ Đức Bà Paris, nơi vừa bị cháy vào tối hôm qua, 15/4/2019.
Nhiều người ngỡ ngàng và cảm phục khi ngắm ngôi thánh đường nhà thờ Đức Bà với 140 năm tuổi, với kiến trúc đặc biệt ấn tượng do các vị mục tử và các nghệ nhân ngày xưa đã đem hết tâm huyết xây dựng.
Nhà thờ Đức Bà qua dòng thời gian
Nhà thờ Đức Bà nhìn chính diện từ trên cao và quảng trường Pigneau de Béhaine vào năm 1955
Nhà thờ Đức Bà nhìn chính diện từ trên cao và quảng trường Công xã Paris vào năm 2005
Nhà thờ Đức Bà phía sau lưng, nhìn từ trên cao vào năm 1955
Nhà thờ Đức Bà phía sau lưng, nhìn từ trên cao vào năm 2005
Tiền thân của nhà thờ Đức Bà
Nhà thờ Đức Bà nay là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Sài Gòn. Trước đó, trong giai đoạn đầu của giáo phận Tây Đàng Trong (nay là Tổng giáo phận Sài Gòn) từng có một ngôi nhà thờ đầu tiên, gọi là nhà thờ Sài Gòn ở đường số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế, Q.1) và tiếp đó là nhà thờ Sài Gòn (thứ 2) bằng gỗ được xây dựng bên bờ Kênh Lớn.
Kênh Lớn trước đây còn gọi là Kênh Chợ Vải hay Kênh Charner, nằm ngay giữa đường Nguyễn Huệ, bắt đầu từ bến Bạch Đằng chạy thẳng đến trước Dinh Xã Tây, nay là trụ sở HĐND, UBND TP.HCM (86 Lê Thánh Tôn, Q.1).
Ngày 11.4.1861, theo quyết định của đô đốc Léonard Victor Joseph Charner, Kênh Lớn được đổi tên thành kênh đào Charner. Hai bên bờ kênh là hai con đường chạy song song: đường Rigault de Genouilly (phía thương xá Tax) và đường Charner (phía khách sạn Palace). Năm 1887, kênh Charner được san lấp. Hai đường phía hai bên dòng kênh được sáp nhập thành đại lộ Charner. Năm 1956, đại lộ Charner được đổi tên thành đại lộ Nguyễn Huệ, và ngày nay là quảng trường phố đi bộ Nguyễn Huệ
Lễ khánh thành nhà thờ Sài Gòn – nhà thờ chính tòa của của giáo phận Tây Đàng Trong được chính quyền Pháp xây dựng bên dòng Kênh Lớn vào năm 1863
Hành trình dựng xây kiệt tác kiến trúc cổ điển
Để chuẩn bị cho một ngôi nhà thờ kiên cố, bền vững theo dòng thời gian, xứng tầm là nhà thờ trung tâm của vùng đất phương Nam – Sài Gòn đang phát triển mạnh mẽ, tháng 8.1876, Thống đốc Nam Kỳ Guy Victor Auguste Duperré đã tổ chức thi tuyển thiết kế nhà thờ mới – nhà thờ Sài Gòn thứ 3 (nhà thờ Đức Bà hiện nay). Vượt qua nhiều đồ án tham gia cuộc thi, đồ án của kiến trúc sư J.Bourad đã được chọn. Bản thiết kế của ông rất độc đáo, đã phối hợp hài hòa hai trường phái kiến trúc cổ điển lừng danh Roman và Gotich
Thống đốc Nam Kỳ Guy Victor Auguste Duperré cũng cho tổ chức đấu thầu để chọn nhà thầu thi công nhà thờ mới. Cuối cùng, kiến trúc sư J.Bourad trúng thầu công trình xây dựng đặc biệt này.
Sau khi bản vẽ chính thức được tuyển chọn, vấn đề vị trí của ngôi nhà thờ mới cũng từng bước được đặt ra và lựa chọn. Trước hết, vị trí Trường Thi cũ, nằm ở góc đường ngày nay là ngã tư Lê Duẩn – Hai Bà Trưng, hiện nay là Tòa lãnh sự Pháp. Nơi thứ 2 là vị trí nhà thờ cũ ở bên dòng Kênh Lớn (nay là quảng trường phố đi bộ Nguyễn Huệ). Nhưng cuối cùng, vị trí hiện tại được chọn và nhà thờ Đức Bà hiện diện sống động giữa trung tâm Sài Gòn suốt 138 năm qua.
Ngày 7.10.1877, Đức cha Isidore Colombert, tên Việt là Đức cha Mỹ, giám mục đại diện tổng tòa giáo phận Tây Đàng Trong lúc bấy giờ, đã cử hành nghi thức làm phép và đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ Sài Gòn (nay là nhà thờ Đức Bà).
Công trình được thi công khá nhanh, khoảng hai năm rưỡi, vào đúng vào dịp lễ Phục sinh, ngày 11.4.1880, thánh lễ làm phép và khánh thành nhà thờ Sài Gòn cũng do chính Đức cha Isidore Colombert cử hành trọng thể với sự tham dự của Thống đốc Nam Kỳ Charles Le Myre de Villes. Các vật tư chính để xây dựng nhà thờ như xi măng, sắt thép, ngói, kính màu, chuông… đều được mang từ Pháp sang. Thời kỳ đầu, nhà thờ có tên gọi là nhà thờ Nước, bởi vì tất cả kinh phí xây dựng đều do nhà nước Pháp thời ấy cung cấp với số tiền 2,5 triệu francs Pháp theo thời giá lúc bấy giờ.
Phần cao nhất của nhà thờ là hai tháp chuông. Khi mới hoàn thành công trình vào năm 1880, hai tháp chuông cao khoảng 37m. Năm 1895, theo thiết kế bổ túc của kiến trúc sư Fernand Gardes, hai tháp thép dạng chóp nhọn được lắp dựng thêm bên trên tháp chuông, làm cho tháp chuông nhà thờ vươn cao trên bầu trời với chiều cao mỗi tháp khoảng 60m. Để đỡ bộ chuông nặng gần 30 tấn với 6 quả chuông, tường nhà thờ được xây rất dày, khoảng 1,4m.
Cột mốc đánh dấu tên gọi nhà thờ Đức Bà
Từ phía tháp chuông nhìn ra ngoài, sẽ thấy một quảng trường (hiện mang tên Công xã Paris) với 4 con đường nhỏ giao nhau tạo thành hình thánh giá mà trung tâm là tượng Đức Mẹ Hòa Bình được lắp dựng vào năm 1959. Tượng do nhà điêu khắc G.Ciocchetti thực hiện. Bức tượng cao 4,6m, nặng 5,8 tấn bằng đá cẩm thạch trắng carrara của Ý, được tạc với chủ đích nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế thẳng đứng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên bầu trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hòa bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn, mà hiện nay đầu con rắn bị bể mất cái hàm trên.
Vào thời điểm năm 1959, Đức Hồng y Agagianian đã làm phép tượng Đức Mẹ Hòa Bình tại quảng trường trước nhà thờ Sài Gòn. Từ đó, với sự kiện này, nhà thờ Sài Gòn có tên gọi là nhà thờ Đức Bà. Trên bệ đá, phía trước tượng Đức Mẹ, có một tấm bảng bằng đồng với hàng chữ Latinh: REGINA PACIS – ORA PRO NOBIS – XVII. II. MCMLIX, nghĩa là “Nữ vương Hòa Bình – Xin cầu cho chúng con – 17.2.1959”
Nhà thờ Đức Bà đã được kiến trúc sư J.Bourad thiết kế theo lối kiến trúc rất độc đáo, kết hợp hài hòa giữa kiểu thức Roman và Gotich tạo nên một phong cách riêng cho ngôi nhà thờ cổ kính. Công trình cũng ghi nhận sự du nhập, giao lưu và tiếp biến của văn hóa, kiến trúc Đông – Tây. Kiến trúc sư J.Bourad đã thành công trong một thể loại công trình thuộc nền văn hóa phương Tây, nhưng xây dựng ở phương Đông với những kết cấu và vật liệu mới nhưng lại phù hợp với các điều kiện xã hội và khí hậu bản xứ
Bí ẩn công trình 138 năm tuổi
Không gian bên trong nhà thờ Đức Bà nhìn từ dưới lên
Khi thiết kế mái ngói, kiến trúc sư J.Bourad đã thành công trong việc kết hợp hài hòa giữa kiểu mái ngói Việt với mái ngói Tây. Căn cứ theo loại ngói lợp hiện nay, có thể phân chia mái ngói nhà thờ thành 3 vùng với khoảng hơn 100.000 viên ngói.
Bộ chuông cổ lắp đặt bên trong hai tháp chuông nhà thờ Đức Bà được thiết kế và vận hành rất độc đáo. 6 quả chuông đồng lớn, được hãng đúc chuông Bollee chế tác vào năm 1879, tại Pháp, với những đường nét họa tiết rất tinh xảo. Bộ chuông nặng tổng cộng khoảng 30 tấn, được phối âm độc đáo với các cung: sol – la – si – do – re – mi.
Trên tường phía dưới và trên cao của nhà thờ Đức Bà có các cửa sổ được lắp đặt các tác phẩm nghệ thuật thánh bằng kính màu, có nội dung diễn tả các nhân vật thánh và sự kiện trong Kinh Thánh, nhưng cũng xen kẽ rất nhiều họa tiết và hình tượng phương Đông. Hệ thống kính màu được thiết kế rất đặc sắc và phối sáng hài hòa, tạo nên một hiệu ứng ánh sáng tuyệt vời. Trong lòng nhà thờ, một làn ánh sáng nhẹ nhàng, tạo bầu không khí trang nghiêm, an bình… Ánh sáng huyền ảo cũng làm cho các chi tiết kiến trúc, nội thất bên trong thánh đường nổi bật và đẹp hơn. Toàn bộ các ô cửa kính màu do hãng Lorin (Pháp) sản xuất.
Kính màu bên trên cung thánh nhà thờ Đức Bà
Bàn thờ phía cung thánh trong nhà thờ Đức Bà được làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối với sáu thiên thần được tạc trên khối đá bàn thờ. Bệ đỡ bàn thờ được chia làm 3 phần, đây là tác phẩm điêu khắc mỹ thuật tuyệt đẹp diễn tả các sự kiện trong Kinh Thánh.
Ánh sáng từ những chiếc đèn chùm được thiết kế với những hoa văn theo kiểu Roman – Gotich tạo nên một không gian lung linh, trang trọng và thánh thiêng. Những chiếc đèn này được chế tác tại Pháp, gắn liền với lịch sử 138 năm qua của nhà thờ Đức Bà
Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn theo dòng lịch sử:
Ảnh: Nhà thờ Đức Bà năm 1956.
Ngay sau khi chiếm được Sài Gòn, người Pháp cho lập nhà thờ để làm nơi hành lễ cho người Công giáo trong quân đội. Theo nnhiều ý kiến, nhà thờ đầu tiên nằm tại đường số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế), nơi đây vốn là 1 ngôi chùa cũ của người Việt bị bỏ hoang do chiến sự loạn lạc.
Ảnh: tranh vẽ về lễ khởi công xây dựng nhà thờ thứ 2 tại Sài Gòn.
Năm 1863, Đô đốc Bonard quyết định khởi công xây dựng một nhà thờ lớn hơn bằng gỗ bên bờ Kinh Lớn (Kinh Charner) – kinh này sau được lấp đi và xây dựng thành đường Nguyễn Huệ ngày nay.
Ảnh: nguyên văn bài báo về lễ khởi công xây dựng nhà thờ thứ 2 tại Sài Gòn.
Nhà thờ này được khởi công xây dựng từ ngày 28/03/1863 đến năm 1865 thì hoàn thành, ban đầu gọi là Nhà thờ Saigon.
Ảnh: tranh khắc tả lại buổi lễ khánh thành Nhà thờ Saigon.
Sau khi Nhà thờ Đức Bà được xây dựng, Nhà thờ Saigon bị phá bỏ và người Pháp cho xây Toà hoà giải trên nền cũ của nhà thờ.
Ảnh: Toà hoà giải thời Pháp thuộc.
Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ Duperré tổ chức cuộc thi thiết kế đồ án cho nhà thờ mới, Mục đích là vừa để xây dựng chỗ thờ phượng, hành lễ cho tín đồ Công giáo, vừa phô trương thanh thế của đạo, cũng như sự vĩ đại của nền văn hoá Pháp.
Ảnh: Sài Gòn nhìn từ Thủ Thiêm, ngay giữa hình có 1 nóc nhà nhô cao, đó chính là vị trí của Nhà thờ Saigon.
Người chiến thắng trong cuộc thi là kiến trúc sư Bourad, một người chuyên thiết kế các thánh đường ở châu Âu, với đồ án 1 nhà thờ mang phong cách kiến trúc Roman cải biên.
Ảnh: Bản đồ thành Quy, vị trí được khoanh tròn tương ứng với vị trí Nhà thờ Đức Bà ngày nay.
Ban đầu địa điểm xây dựng được đề nghị ở 3 nơi:
– Trên nền Trường Thi cũ (Toà Đại sứ Pháp ngày nay).
– Ở khu Kinh Lớn, vị trí nhà thờ Saigon.
– Vị trí nhà thờ toạ lạc hiện nay.
Ảnh: vị trí Toà đại sứ Pháp.
Ảnh: vị trí toà nhà Sunwah Tower, 1 trong 3 nơi được đề xuất để làm Nhà thờ Đức Bà.
Ảnh: vị trí Nhà thờ Đức Bà hiện nay.
Và ý kiến cuối cùng được chọn thì ai cũng đã biết. Kiến trúc sư Bourad ngoài việc thắng thiết kế thì ông cũng trúng luôn thầu xây dựng nhà thờ.
Trong quá trình xây dựng, mọi vật liệu từ lớn tới nhỏ đều được mang từ Pháp sang.
Ảnh: Nhà thờ Đức Bà thập niên 80 của thế kỷ XIX.
Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert làm lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ.
Nhà thờ Đức Bà được xây dựng trong vòng 3 năm. Tháng 4 năm 1880, vào dịp Lễ Phục sinh, nghi thức cung hiến và khánh thành Nhà thờ Đức Bà được tổ chức do Cố đạo Colombert điều hành và có sự tham gia của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers.
Hiện nay, bên trong cửa ra vào nhà thờ có chiếc bảng cẩm thạch ghi ngày khởi công và tên vị Tổng công trình sư.
Ảnh: 1 hình ảnh hiếm của Nhà thờ Đức Bà lúc vừa xây.
Tất cả mọi chi phí xây dựng đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ nên sau khi xây xong, người ta đặt tên là Nhà thờ Nhà nước.
Ảnh: Nhà thờ Đức Bà năm 1890.
Năm 1895, người ta xây thêm 2 tháp chuông cho nhà thờ. Mỗi tháp chuông cao 57,6m, có 6 chuông lớn nặng tổng cộng 28,85 tấn. Trên đỉnh mỗi tháp chuông có gắn 1 cây thánh giá cao 3,5m, nặng 600kg.
Ảnh: Nhà thờ Đức Bà sau khi đã gắn 2 tháp chuông.
Ngay trước Nhà thờ Đức Bà có một vườn hoa nhỏ. Từ lúc nhà thờ xây xong cho đến năm 1903, nơi đây có tồn tại một hồ nước nhỏ.
Ảnh: Hồ nước nhỏ trước Nhà thờ Đức Bà, vị trí đặt tượng Đức Mẹ ngày nay.
Năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Bá Đa Lộc hoặc Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp “bảo hộ”, “khai hóa” cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình Giám mục Adran với phẩm phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh, tay phải cầm Hiệp ước Versailles năm 1787.
Ảnh: tượng Bá Đa Lộc trước Nhà thờ Đức Bà.
Giới bình dân Saigon thưở đó gọi tượng Bá Đa Lộc là “tượng 2 hình” để phân biệt với “tượng 1 hình” của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly đặt tại Công trường Mê Linh.
Ảnh: tượng 1 hình – tượng Đô đốc Genouilly.
Năm 1945, sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam thì tượng Bá Đa Lộc đã bị dỡ xuống, tuy vậy, bệ đá hoa cương đỏ thì vẫn được giữ lại.
Ảnh: Hình tạp chí Life chụp công viên trước Nhà thờ Đức Bà thập niên 50 của thế kỷ 20. Lúc này, tượng Bá Đa Lộc đã bị dỡ xuống…
Năm 1958, Linh mục Phạm Văn Thiên, người cai quản giáo xứ Saigon lúc bấy giờ, sau 1 chuyến đi sang Ý, đã đặt 1 đức tượng Đức Mẹ Hoà Bình bằng đá cẩm thạch Carrara của Ý. Nơi tạc bức tượng là Pietrasanta, cách Rome 500km.
Tượng hoàn tất và được đưa xuống tàu ngày 8.01.1959, tới Saigon vào ngày 15.02.1959.
Ảnh: Tượng Đức Mẹ Hoà Bình.
Bức tượng Đức Mẹ Hoà Bình do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện.
Tượng cao 4.6m, nặng 8 tấn. Tượng không được đánh bóng với chủ ý là để nhìn từ xa. Dưới chân Đức Mẹ có 1 con rắn (ngày nay, con rắn đã bị bể mất hàm trên). Trên bệ đá có 1 tấm bảng với dòng chữ Latin, dịch ra là: “Nữ Vương Hoà Bình – Cầu cho chúng tôi – 17.02.1959”
Giáp với chân tượng Đức Mẹ có 1 cái hốc, bên trong có 1 chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới.
Ảnh: tượng Đức Mẹ năm xưa.
Ngày 17.02.1959, bức tượng Đức Mẹ được làm phép, từ đó nhà thờ có tên Nhà thờ Đức Bà.
Ngày 05.12.1959, Toà thánh Vatican tấn phong Nhà thờ Đức Bà Saigon lên hàng tiểu Vương cung thánh đường (Basilique). Sau sự kiện này, Nhà thờ Đức Bà có tên chính thức là Vương cung thánh đường Đức Bà Saigon.
Năm 1960, nơi đây trở thành nhà thờ chính toà của Tổng giám mục Saigon.
Ảnh: Nhà thờ Đức Bà năm 1965.
Nhà thờ Đức Bà những buổi đầu…
Mặt ngoài của nhà thờ làm bằng gạch đặt tại Marseille để trần, không tô trát, đến nay vẫn còn nguyên sắc hồng tươi, không bám rêu.
Trong nhà thờ, có một số ngói vỡ ghi Guichard Carvin, Marseille St André France (có lẽ là nơi sản xuất loại ngói này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang-Tai Saigon. Có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Sài Gòn dùng để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Thế chiến thứ hai do những cuộc không kích của quân Đồng Minh.
Ảnh: Màu gạch đỏ của nhà thờ.
Cổng chính nhà thờ Đức Bà có hướng đông nam (west facade) và bàn thờ hướng tây bắc (east facade) nhìn về hướng Jerusalem.
Móng của nhà thờ được thiết kế để chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc nhà thờ bên trên. Nhà thờ có 1 nét độc đáo là không có hàng rào, hay bờ tường bao quanh.
Ảnh: Nhà thờ Đức Bà lúc đang xây dựng, mái của nhà thờ được dùng để che móng công trình.
Nội thất thánh đường được thiết kế thành 1 lòng chính, 2 lòng phụ tiếp đến là 2 dãy nhà nguyện. Chiều dài của thánh đường là 93m, bề ngang nơi rộng nhất là 35m, chiều cao vòm mái là 21m. Thánh đường có sức chứa lên đến 1200 người.
Ảnh: thánh đường Nhà thờ Đức Bà.
Thánh đường có 2 hàng cột chính gồm 12 cột, tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Phía sau hàng cột là các góc nguyện và các tượng thánh nhỏ.
Ảnh: 1 góc nguyện bên trong Nhà thờ Đức Bà.
Đây là 1 góc nguyện khác…
Bàn thờ cung thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình 6 vị thiên thần khắc vào khối đá đỡ mặt bàn thờ. Mặt bàn thờ tròn đặt trên khối vuông, bên dưới là các bệ bát giác. Có tổng cộng 7 bậc thang bước lên cung thánh.
Trên tường nhà thờ được trang trí nổi bật với 56 cửa kính mô tả các nhân vật, sự kiện trong Kinh Thánh.
Tất cả đường nét đều mang phong cách Roman và Gothic. Tuy vậy, trong tổng số 56 cửa kính thì chỉ còn có 4 cửa kính là nguyên bản, các cửa khác đã bị hư hỏng trong Thế chiến thứ 2.
Năm 1949, các cửa kính đã được phục chế, thay thế.
Trên trán tường cửa chính nhà thờ có dòng chữ Latin với ý nghĩa: “Thiên Chúa tối cao đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội”.
Trên trán tường bên phải là câu đối tiếng Hoa: “Nhà thờ Thiên Chúa đầy ân đức – Thánh mẫu vô nhiễm nguyên tội”.
Ảnh: dòng chữ Latin trên trán tưởng cửa chính Nhà thờ Đức Bà.
Saigon 1964 – Hình ảnh chụp Nhà thờ Đức Bà vào tháng 10/1964. Điều đặc biệt ở đây là nhà thờ chỉ có 1 cây thánh giá, cây thánh giá bên phải hình đã bị sét đánh gãy trước đó.
Lúc này, nhà thờ bị sét đánh trúng và làm gãy 1 cây thánh giá trên tháp chuông. Kích thước của cây thánh giá này: cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Việc đưa cây thánh giá lên đỉnh tháp cũng quả là một kỳ công.
Hình ảnh lúc sửa chữa tháp chuông.
(nhacxua.vn biên soạn dựa theo bài của báo Thanh Niên, hình ảnh của anhxua.com. manhhai’s flickr)