Khi đọc lại các loại sách báo miền Nam, các tờ nhạc, chúng ta dễ dàng bắt gặp các chữ ghép được nối với nhau bằng “gạch nối”. Ví dụ như “dinh độc-lập”…
Vậy nguyên tắc sử dụng các dấu gạch nối này như thế nào? mời quý bạn đọc theo dõi bài viết này của trang Stories In Saigon:
Trước năm 1975, văn phạm Việt ngữ ở Miền Nam đã sử dụng dấu gạch nối trong những chữ ghép. Nền giáo dục và văn học tại miền Nam đã dùng dấu gạch nối trong những trường hợp dưới đây:
1. Chữ ghép Hán-Việt
độc-lập, ngôn-ngữ-học, Hồng-thập-tự, tiềm-thủy-đĩnh, hàng-không-mẫu-hạm, thủy-quân-lục-chiến.
2. Chữ ghép thuần Việt
- Chữ kép một âm có nghĩa: dễ-dàng, mặn-mà, nhỏ-nhắn, nở-nang, vững-vàng, xót-xa,…
- Chữ kép gồm hai âm không nghĩa riêng, nhưng khi ghép lại, hai âm tạo thành một chữ có nghĩa chung: bâng-khuâng, hững-hờ, ngậm-ngùi, thênh-thang,…
- Chữ kép gồm hai âm có nghĩa riêng: biển-dâu, bướm-ong, cay-đắng, đầy-đủ, mắm-muối, mệt-mỏi,…
- Chữ kép gồm hai âm đồng nghĩa: chợ-búa, dơ-bẩn, dư-thừa, đau-ốm, gầy-ốm, hình-ảnh, lẫn-lộn, lựa-chọn, mập-béo, nhỏ-bé, ô-dù, sắc-bén, thương-yêu, to-lớn, rơi-rớt …
- Chữ kép đồng âm: chậm-chậm, đời-đời, hàng-hàng, lớp-lớp, mãi-mãi, xa-xa…
3. Nhân danh (tên hiệu)
Nguyễn-Du, Tố-Như, Trương-Vĩnh-Ký, Đào-Duy-Anh, Dương-Quảng-Hàm, Trần-Trọng-Kim,…
4. Địa danh:
Việt-Nam, Huê-Kỳ ,…
5. Danh từ phiên âm:
Hoa-Thịnh-Đốn, Mạc-Tư-Khoa, Đô-Thành Saigon,…
6. Chữ có quan hệ qua lại với nhau:
hội Việt-Mỹ, dấu hỏi-ngã, văn hóa Đông-Tây, phát triển Công-kỹ-nghệ…
7. Một số từ ngữ mà các âm tiết không thể tách rời:
khô-cá, chỉ-vàng, tại-vị-bởi,…
8. Giữa các con số chỉ ngày tháng năm:
ngày 1-1-1968
9. Giữa hai nhóm số để nói lên khoảng cách thời gian
1955-1975
Trên đây là những quy tắc sử dụng dấu gạch nối trước năm 1975. Tuy nhiên việc dùng cái gạch nối này chưa thống nhứt. Có người áp dụng theo các nguyên tắc, nhưng cũng có người chỉ dùng dấu gạch nối theo văn phong cá nhân.
Nguồn: fanpage Stories In Saigon