Trong các “gia đình nghệ thuật” nổi tiếng của miền Nam, người ta nhắc đến nhiều đến gia đình họ Phạm với các anh chị em nhà Thăng Long đã trở thành những tên tuổi huyền thoại là Phạm Đình Viêm, Thái Hằng, Phạm Đình Chương, Thái Thanh. Một gia đình họ Phạm nổi tiếng trong âm nhạc khác là Phạm Duy – Thái Hằng với những người con đã trở thành các ca sĩ, nhạc sĩ.
Trong bài này, xin nhắc về một gia đình âm nhạc đã sản sinh ra những tài năng với nhiều đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam, đó là gia đình nghệ sĩ Lữ Liên, cùng với những thành viên là anh chị em một nhà: Bích Chiêu, Tuấn Ngọc, Anh Tú, Khánh Hà…
Nghệ sĩ Lữ Liên, thuộc thế hệ tiên phong của tân nhạc và có nhiều đóng góp cho làng nhạc Sài Gòn, đặc biệt là ở thể loại nhạc hài hước. Lữ Liên tên thật là Lã Văn Liên, sinh năm 1917 ở Hải Phòng. Ông “Nam tiến” vào năm 1942 và chọn định cư ở xứ Đà Lạt. Tại đây vợ chồng ông lần lượt sinh những người con nổi tiếng trong làng văn nghệ Việt Nam, đó là Bích Chiêu, một danh ca lừng lẫy ở các phòng trà Sài Gòn từ cuối thập niên 1950, sau đó lần lượt là Tuấn Ngọc, Anh Tú, Khánh Hà, Thúy Anh, Lan Anh và Lưu Bích.
Sau hơn 10 năm ở xứ sở sương mù, gia đình nghệ sĩ Lữ Liên về Sài Gòn định cư, ông gia nhập quân ngũ năm 1957 và làm việc trong đài phát thanh quân đội. Lữ Liên bắt đầu sự nghiệp sáng tác bằng các ca khúc châm biếm cho ban nhạc hài hước AVT. Sang năm 1966, ông chính thức gia nhập ban AVT, sáng tác và đồng thời biểu diễn những ca khúc dí dỏm, vui nhộn là: Chúc xuân, Du xuân, Tiên Sài Gòn, Gái trai thời đại, Lịch sử mái tóc huyền, Mảnh bằng, Ba ông bố vợ…
Tên tuổi nghệ sĩ Lữ Liên gắn liền với ban AVT, nhưng ít người biết rằng trước khi gia nhập ban nhạc hài hước nổi tiếng này, có một thời gian ngắn ông tham gia ban hợp ca Thăng Long cùng với gia đình nhà họ Phạm là Thái Thanh, Hoài Trung, Hoài Bắc để trình diễn những ca khúc mang âm hưởng dân ca. Lữ Liên là một nhạc sĩ chuyên về cổ nhạc, thuần thục các nhạc cụ dân tộc và nổi tiếng với màn vừa song tấu vừa đối đáp với nghệ sĩ violin Hoàng Thi Thao trong tiết mục Cò Tây Cò Ta.
Click để nghe tiết mục Cò Tây Cò Ta
Sau này ở hải ngoại, nhạc sĩ Lữ Liên còn viết lời Việt cho nhiều ca khúc nhạc nước ngoài nổi tiếng, tiêu biểu là Lạc Mất Mùa Xuân, Dĩ Vãng Nhạt Nhoà…
Người con gái đầu của nghệ sĩ Lữ Liên là ca sĩ Bích Chiêu nổi tiếng với phong cách jazz từ cuối thập niên 1950. Đó là thời điểm mà Bạch Yến, Bích Chiêu trở thành những danh ca hàng đầu tại các phòng trà ở Sài Gòn.
Bích Chiêu sinh năm 1942, lớn hơn người em kế là Anh Tuấn (ca sĩ Tuấn Ngọc) 5 tuổi. Khi mới chuyển vào Sài Gòn năm 1954, đôi song ca “em bé” Bích Chiêu và Tuấn Ngọc nhanh chóng thu hút được sự chú ý của khán giả đô thành. Năm 13 tuổi Bích Chiêu đã đi hát phòng trà và tạo dựng được tên tuổi với các ca khúc tiền chiến hát theo phong cách ngẫu hứng của nhạc jazz, đặc biệt là bài Nỗi Lòng (Nguyễn Văn Khánh) với kiểu hát nhấn nhá, vừa hát mà vừa như bông đùa, chọc ghẹo đã tạo thành một thương hiệu riêng của Bích Chiêu.
Cũng giống như Bạch Yến, khi đang ở đỉnh cao của sự nghiệp thì Bích Chiêu tự rời khỏi hào quang để sang Pháp du học, rồi lập gia đình tại đây, nên từ đó công chúng Sài Gòn không còn được biết đến tên tuổi của bà nữa.
Người tiếp theo trong gia đình họ Lã, là người được yêu thích nhất, nhưng cũng là người có được vinh quang muộn nhất, chính là ca sĩ Tuấn Ngọc, tên thật là Lã Anh Tuấn. Sau này ông giải thích về nghệ danh Tuấn Ngọc một cách hài hước như sau:
“Hồi còn nhỏ, lúc 7 tuổi, tôi đi hát lấy tên thật là Anh Tuấn, nhưng trong đài phát thanh đã có một kịch sĩ lâu năm cũng tên Anh Tuấn nên mọi người không cho tôi lấy tên đó, sợ bị trùng, sợ tôi lĩnh lương của ổng. Bố tôi đổi tên cho tôi mà không hỏi ý kiến nên bây giờ tôi có tên là Ngọc nữa”.
Giọng ca Tuấn Ngọc có phong cách diễn tả đặc biệt, nhận được sự đánh giá cao của giới chuyên môn cũng như sự hâm mộ của công chúng yêu nhạc. Những nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn cũng xem Tuấn Ngọc là giọng ca nam hát những nhạc phẩm của họ thành công nhất. Ông cũng được nhiều người xem như một giọng ca nam “tượng đài” của dòng nhạc tình ca Việt Nam ở hải ngoại. “Trường phái Tuấn Ngọc” đã ảnh hưởng tới nhiều ca sĩ thế hệ sau như Nguyên Khang, Trần Thái Hòa, Quang Dũng, Xuân Phú,…
Nổi tiếng với dòng nhạc tình ca, trữ tình và tiền chiến đến như vậy, nhưng trong suốt gần 40 năm đầu của sự nghiệp, Tuấn Ngọc chủ yếu hát nhạc nước ngoài, không mấy khi hát nhạc Việt. Trước năm 1975, tên tuổi của ông vẫn rất mờ nhạt trong số hàng trăm ca sĩ danh tiếng của miền Nam. Tuấn Ngọc chỉ thực sự tạo dựng tên tuổi với nhạc Việt Nam vào năm 1989, khi đã 42 tuổi, trong CD Lời Gọi Chân Mây hát chung với ca sĩ Thái Hiền.
Cho đến nay, Tuấn Ngọc luôn được xem là một trong những nam ca sĩ tiêu biểu nhất của dòng nhạc trữ tình với những bài tình ca bất tử.
Người em kế trong gia đình nghệ sĩ họ Lã là ca sĩ Anh Tú, tên thật là Lã Anh Tú, là người ca sĩ bạc mệnh nhất trong số các anh chị em vì đã qua đời khi còn khá trẻ.
Anh Tú được biết đến ở Sài Gòn từ trước năm 1975 khi hát trong ban nhạc gồm các anh em trong nhà, là ban The Uptight, sau đó là Thuý Hà Tú. Tên tuổi Anh Tú chỉ thực sự được biết đến nhiều với tư cách là ca sĩ độc lập là ở hải ngoại với những bài nhạc ngoại lời Việt êm dịu như Lạc Mất Mùa Xuân, Dĩ Vãng Nhạt Nhoà, Một Thuở Yêu Người… Bên cạnh đó ông cũng trình bày rất truyền cảm những nhạc phẩm tình cảm nhẹ nhàng của Việt Nam như Tuổi Xa Người, Linh Hồn Tượng Đá, Bài Không Tên Số 6, Tưởng Rằng Đã Quên…
Năm 2003, Anh Tú đột ngột qua đời ở tuổi 53, để lại nhiều tiếc nhớ đối với khán giả và đồng nghiệp. Nói về giọng ca đặc biệt này, ca sĩ Cẩm Vân đã nhận xét:
Giọng hát của Anh Tú mỏng manh, trong sáng, nhẹ nhàng, giản dị nhưng quý phái đến độ chúng tôi đã ví giọng hát anh là Thủy Tinh dễ vỡ. Tôi lúc nào cũng chọn và để sẵn trên kệ CD của mình – nơi mà dễ lấy nhất, để khi cần, mình không phải vất vả tìm kiếm. Mỗi khi bị stress và mệt mỏi, thì giọng hát của anh đã giúp cho chúng tôi tìm được cảm giác nhẹ nhàng và thoải mái hơn. Giọng hát đó của anh như cơn gió mát mùa Hè. Và con người của anh, như những mùa Xuân nắng ấm luôn đem cho người khác những niềm vui và hy vọng vô bờ.
Nhạc sĩ Quốc Bảo cũng viết trong một bài báo:
Anh Tú có một cách phát âm tiếng Việt khá đặc biệt, hờ hững, run rẩy, và đẩy hơi từ răng để chữ trượt theo, nghe nhẹ nhõm, phóng túng, không gắng sức dụng công. Mà quả thật, anh hát như thể đang trò chuyện thân tình, như lời tâm sự bằng hữu, để những đoạn nghẹn ngào cũng chỉ vừa đủ như một nỗi đau đã lành được kể lại. Anh Tú hát tiếng Pháp chuẩn xác, điều chỉ có được với những người thực sự sử dụng được ngoại ngữ này. Cách phát âm tiếng Pháp với nhiều âm mũi cũng ảnh hưởng đến cách hát của anh trong nhạc Việt. Những âm khép được đẩy hết lên mũi, nghe chơi vơi, tuyệt vọng một cách đặc biệt. Đấy là cách hát tạo thành phong cách cho anh, không thể nhầm lẫn với bất kỳ ai…”
Người ca sĩ thứ 4 trong gia đình nghệ sĩ họ Lã là Khánh Hà, tên thật là Lã Khánh Hà, một ca sĩ có giọng ca rất điêu luyện nhưng cũng rất truyền cảm trong các bài tình ca Việt Nam. Thời trung học, Khánh Hà là một nữ sinh trường Nguyễn Bá Tòng, cùng lúc đó cô theo học ở Trung tâm văn hóa Pháp (Centre culturel français) và Hội Việt Mỹ (Vietnam-USA Society). Vì lý do này mà cũng giống như 2 ông anh nổi tiếng Tuấn Ngọc, Anh Tú, thời trẻ của Khánh hà chủ yếu là gắn bó với những ca khúc nhạc ngoại. Cô chỉ hát nhạc trữ tình Việt Nam khi đã sang hải ngoại.
Từ giữa thập niên 1980, Khánh Hà lập ra một trung tâm băng nhạc riêng mang tên mình để sản xuất nhiều chương trình âm nhạc có tính nghệ thuật cao, với thành phần ca sĩ tham gia chủ yếu là người trong nhà, đó là Tuấn Ngọc, Anh Tú, Lưu Bích, nhóm Thuý Hà Tú – Ban nhạc The Uptight, và sau này là giọng hát của chồng là ca sĩ Tô Chấn Phong.
Trong những người em của Bích Chiêu, Tuấn Ngọc… còn có 3 nữ ca sĩ Thuý Anh, Lan Anh và Lưu Bích. Thuý Anh là ca sĩ trong ban Thuý-Hà-Tú (Thuý Anh – Khánh Hà – Anh Tú) từ trước năm 1975, Lan Anh thì còn được biết đến với vai trò là một tay trống điêu luyện, và nổi tiếng nhất trong số 3 cô em gái này là ca sĩ Lưu Bích.
Thực ra có một điều không nhiều người biết, Lưu Bích không phải là con ruột của nghệ sĩ Lữ Liên, cô là em cùng mẹ khác cha với những anh chị nhà họ Lã. Tuy nhiên được biết rằng Lưu Bích được ông Lữ Liên yêu thương như con ruột, và được các anh chị xem như là một cô em út bé bỏng, giữa họ có sự gắn kết đặc biệt với nhau.
Lưu Bích không hát cùng dòng nhạc với các anh chị mà gắn bó sự nghiệp với dòng nhạc trẻ, đặc biệt được yêu thích khi song ca cùng anh rễ là ca sĩ Tô Chấn Phong.
nhacxua.vn biên soạn