“Kỳ thi Tú tài IBM” ở Sài Gòn năm 1974 – Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng

Kỳ thi tú tài niên khóa 1973-1974 ở miền Nam không chỉ đặc biệt vì là kỳ thi cuối cùng mà còn bởi lần đầu tiên Bộ Quốc Gia Giáo Dục VNCH áp dụng máy điện toán IBM (International Business Machines) để chấm thi tú tài.

Máy điện toán đã xuất hiện từ năm 1924, nhưng vào những năm thập niên 70 tại Việt Nam, chúng vẫn còn hiếm. Ngay cả thuật ngữ “máy điện toán” hay “máy tính điện tử” cũng chưa phổ biến. Để chấm thi bằng máy điện toán, Bộ Quốc Gia Giáo Dục hợp đồng với một đơn vị quân đội Mỹ, sử dụng máy IBM đặt trong căn cứ quân sự với chuyên viên vận hành là quân nhân. Máy IBM thời đó to như một chiếc tủ lớn, dây điện chằng chịt.

Máy IBM chỉ chấm bài trắc nghiệm theo mẫu. Học sinh được làm thử trước bài trắc nghiệm và hướng dẫn cụ thể cách làm bài thi để máy có thể chấm tự động, như sử dụng loại bút nào, đánh dấu câu trả lời thế nào để hợp lệ. Bài thi không đúng “kỹ thuật” sẽ bị loại.

Nha khảo thí dự liệu trường hợp bài thi không hợp lệ, nên điều thêm giám khảo chấm “tay” những bài này. Dù có cả người và máy chấm, kỳ thi đó vẫn gọi là tú tài IBM.

Kỳ thi tú tài IBM được tiến hành vào năm 1974, nhưng kế hoạch đã đề xuất từ năm 1972. Theo tờ nhật báo Hòa Bình, ông Ngô Khắc Tỉnh – Tổng trưởng Giáo dục, tiết lộ vào năm 1972 rằng kỳ thi có thể được tổ chức theo lối trắc nghiệm tùy địa phương và sẽ được chấm bằng máy IBM.

Ông Ngô Khắc Tỉnh cho biết Bộ Giáo dục đang nghiên cứu bãi bỏ kỳ thi tú tài 1 nhưng gặp khó khăn do ảnh hưởng lớn đến Bộ Quốc phòng và việc kiểm soát các trường tư thục. Vì thế, việc bãi bỏ kỳ thi tú tài 1 có thể không thành và Bộ phải nghĩ đến việc tổ chức các kỳ thi trắc nghiệm do địa phương đảm trách, rồi gửi bài về trung ương hoặc chấm tại chỗ nếu có máy IBM.

Vì thiếu chuyên viên và máy IBM chưa đầy đủ, nên các cải tổ quan trọng về thi cử chưa thể thực hiện ngay. Tuy nhiên, đến niên khóa 1972-1973, hy vọng có những đổi mới toàn diện. Thực tế, kỳ thi tú tài IBM diễn ra năm 1974.

Trước kỳ thi, có nhiều ý kiến trái chiều về sự chuẩn bị của Bộ Giáo Dục và việc chấm thi trong căn cứ quân sự. Ông Nguyễn Thanh Liêm, chánh thanh tra, thứ trưởng giáo dục, cho biết: Nha khảo thí đã ký khế ước với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ từ ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển đến các con số thống kê cần thiết.

Đề thi trắc nghiệm khách quan được áp dụng từ niên khóa 1965-66 cho môn Công Dân-Sử Địa. Nhưng phải đến 1974, toàn bộ các môn thi tú tài mới gồm toàn những câu trắc nghiệm khách quan có nhiều lựa chọn. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi được huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với học sinh để điều chỉnh câu trắc nghiệm cho thích hợp.

Điểm thi được chấm bằng máy IBM 1230, sau đó chuyển sang máy 534 để đục lỗ và đọc điểm. Điểm thô được chuyển ra điểm tiêu chuẩn, tính percentile và thứ hạng trúng tuyển. Nhóm mẫu và nhóm định chuẩn được lựa chọn kỹ càng theo phương pháp khoa học.

Bằng tú tài IBM ghi hạng trúng tuyển và điểm từng môn thi. Kết quả kỳ thi tú tài IBM cho thấy tỷ lệ đậu cao hơn so với các kỳ thi trước đó. Tổng số thí sinh ghi tên trong khóa 1 năm 1974 là 142.356, nhưng chỉ 129.406 dự thi, trong đó 53.868 thi đậu (41,6%). Khóa 2 có 94.606 ghi tên nhưng chỉ 76.494 dự thi và 8.607 thi đậu (11,3%).

Người đậu tú tài có nhiều lựa chọn, nhưng kẻ rớt thì đối mặt với việc nhập ngũ, đặc biệt là nam sinh trong bối cảnh chiến tranh ác liệt giai đoạn 1970-1975.

Các kỳ thi ở miền Nam từ 1954 đến 1974 bao gồm thi Tiểu học, Trung học đệ nhất cấp, Tú tài 1 và Tú tài 2. Từ năm 1967, Bộ Giáo dục đã dần loại bỏ các kỳ thi nặng nề. Năm 1974, chỉ còn một kỳ thi tú tài IBM. Sau năm 1975, kỳ thi quốc gia được phục hồi, nhưng có nhiều thay đổi và cải tiến.

GS Dương Đình Đống – một giám thị trong kỳ thi Tú tài IBM duy nhất của Việt Nam, kể lại trải nghiệm của mình. Trước kỳ thi hơn một tháng, Bộ Giáo Dục yêu cầu các trường chọn giám khảo công bằng và liêm khiết. Ông được cử làm giám thị và giám khảo tại Nha Trung học số 7 Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận Nhất, Sài Gòn.

Theo quy định, thí sinh dùng bút chì 2B để đánh dấu câu trả lời. Các giám khảo phải hết sức liêm chính vì mỗi tờ giấy thi có ghi rõ tên thí sinh. Bộ Giáo Dục thuê máy IBM của quân đội Mỹ, cơ sở đóng ở Tân Sơn Nhứt, nơi rất lạnh và các giám khảo phải mang áo ấm. Nhà đặt máy IBM rộng lớn và máy chấm bài tự động, nhưng các bài không hợp lệ phải chấm tay.

GS Dương Đình Đống kể lại sự khó khăn và kỷ luật nghiêm ngặt trong quá trình chấm thi. Các giám khảo làm việc trong điều kiện lạnh khắc nghiệt, không được nói chuyện và phải tuân thủ quy định nghiêm ngặt.

Sau đây, mời các bạn đọc nguyên văn bài viết của GS Dương Đình Đống:

Đó là một kỳ thi đặc biệt, lạ lùng nhất thời đó, theo sáng kiến của Ông Bộ Trưởng Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh và các cố vấn của ông vào cuối thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.

Trước kỳ thi lối hơn 1 tháng, một thông cáo từ Bộ Giáo Dục ở Sài Gòn, qua Nha Trung học, về các trường, yêu cầu chọn gởi về Nha đề nghị các Giám khảo kỳ thi này phải là các Giáo sư có thành tích công bằng và liêm khiết!

Trường Nguyễn Huệ – Tuy Hòa sau đó chọn duy nhất mình tôi, mà sau này, trước khi lên đường đi làm nhiệm vụ tôi mới được biết.

Theo Sự vụ lệnh, tôi được cử làm Giám thị ở trường THPT Lương Văn Can ở quận 8 và làm Giám khảo tại Nha Trung học số 7 Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận Nhứt – Sài Gòn.

[…]

Cho đến năm 1974, hầu hết người Việt vẫn xa lạ với 3 chữ “máy điện toán”, kể cả giới học đường.

Nói đi thi Tú Tài IBM mà hầu như nhiều thầy trò chưa thể mường tượng ra đó là cái gì. Trước đó vài năm các thầy cô “tiến bộ” đã cho học sinh làm “trắc nghiệm” mà các em quen gọi là “a, b, c khoanh”, nghĩa là các thầy cô – nhất là các bộ môn như văn sử, địa, triết (các môn văn chương và xã hội) dùng lối trắc nghiệm này ra đề cho học sinh ở lớp cho “dễ chấm, chấm mau”. Với lối này, mỗi câu hỏi có 3 hoặc 4 câu đáp mà học sinh sẽ phải chọn câu đúng nhất khoanh lại (hay đánh chéo). Còn các câu hỏi có tính cách tự luận như Toán, Lý, Hóa, Sinh vật rất ít khi dùng vì hơi khó ra đề (Khó và mất nhiều công sức chứ không phải không thể).

Trong trường Nguyễn Huệ, nhiều thầy Toán, Lý, Hóa đă ra các đề thi trắc nghiệm cho học sinh. Ví dụ, đề Toán có 3 hoặc 4 đáp án khác nhau ứng với a, b, c hay a, b, c, d; thí sinh phải tự giải và chọn câu chính xác nhất. Điều này buộc thí sinh phải biết cách giải bài, chẳng những thế, còn phải giải cho thật đúng trước khi đánh dấu vào các ô chữ, chứ không thể nhắm mắt đánh cầu may như trong các đề văn chương hoăc xã hội được.

Có lẽ Bộ Giáo Dục muốn giới trí thức, nhất là học sinh, sinh viên mình mau mau bắt kịp thế giới văn minh bên ngoài nên cho áp dụng ngay từ năm 1974 lệ thi Tú Tài IBM, thi cho tất cả 8 môn học: Văn, Sử, Địa, Triết, Toán, Lý, Hóa và Sinh vật.

Theo qui định, các thí sinh phải dùng bút chì 2B, loại bút chì có nét mềm và tương đối đậm màu để đánh dấu chéo (x) vào các ô tròn phía dưới các chữ a, b, c, d (hay A, B, C, D). Học sinh không được dùng các loại bút bi, bút mưc hay các loại bút chì 1B, 3B, vì như vậy máy không thể chấm được và chỉ có thể chấm tay bằng mắt thường. Vì thế, cần có thêm các Giám khảo (người) chấm bài.

Mặt khác trên mỗi tờ giấy thi mỗi môn của thí sinh (tờ A4) có ghi rõ tên, họ, ngày tháng năm sinh của thí sinh cùng địa chỉ và không thể cắt phách được. Các Giám khảo có thể nhìn vào đó mà biết rõ bài thi của ai, ở đâu. Vì thế đòi hỏi Giám khảo hết sức liêm chính!

Giám khảo chúng tôi được chia làm 3 tốp, mỗi tốp lại chia riêng làm 8 bộ môn: Văn, Triết, Sử, Địa, Toán, Lý, Hóa và Sinh vật. Khi chấm bài thì bộ môn nào ngồi tách biệt theo bộ môn đó.

Bộ Giáo Dục không có máy IBM, phải thuê của quân đội Mỹ, cơ sở đóng ở Tân Sơn Nhứt, rất rộng lớn, có tường rất cao, nằm bên kia đường Trường Sơn (tên đường mới bây giờ), đối diện với phi trường Tân Sơn Nhứt. Mỗi tốp như vậy làm việc mỗi ngày lối 5 giờ: Từ 6 đến 11 giờ; 12 đến 17 giờ, và 18 đến 23 giờ. Ăn uống tự túc. Các tốp phải có mặt ở số 7 Nguyễn Bỉnh Khiêm 1 giờ trước khi vào ca của mình. Các tốp được sắp xếp luân phiên các ca cho công bằng và đỡ chán. Đến giờ định, các chiếc xe hải âu màu vàng của Mỹ do chính các tài xế nguời Mỹ lái, chạy không ngừng từ đó vào thẳng căn cứ D.A.O.

Người Mỹ rất kỷ luật, đúng giờ, nhất là tuyệt đối giữ im lặng và bí mật. Suốt cả tháng làm việc, từ các tài xế đến các nhân viên trong căn cứ, không hề nói chuyện với bất cứ ai trong chúng tôi. Chúng tôi được thông báo mang theo áo ấm và ai ngồi đâu phải ngồi chỗ đó suốt buổi làm việc, không được chạy lộn xộn, không được nói chuyện ồn ào.

Muốn vào phòng máy phải đi qua 3 dãy nhà, đúng hơn là 3 luồng nhà nối tiếp nhau; mỗi luồng có độ lạnh khác nhau, lạnh dần từ ngoài vào trong. Nhà trong cùng nơi đặt máy là nơi lạnh nhất.

Ngày đầu, giám khảo nào tự thấy mình khỏe, không đem theo áo ấm, khi gặp phải cái lạnh khủng khiếp nơi phòng để máy phải run lập cập, thất kinh! Nhà đặt máy to bằng nửa sân vân động, đặt hàng vài trăm cái máy IBM to và cao bằng những tủ đứng lớn quay lưng vào nhau.

Chỉ những người Mỹ lo việc chạy máy chấm bài, nhưng trong lúc chúng tôi làm việc thì không thấy bóng dáng người Mỹ nào cả mà chỉ thấy nhiều chồng bài đã xếp sẵn chờ đợi chúng tôi: Đó là những bài thi không hợp lệ bị máy loại ra, phải chấm lại bằng tay […]

 

Kỳ thi tú tài IBM là một kỳ thi đặc biệt và lạ lùng, đánh dấu sự cải tiến và hiện đại hóa trong hệ thống giáo dục VNCH. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh những khó khăn và thách thức trong việc áp dụng công nghệ mới vào thi cử trong bối cảnh chiến tranh và tình hình đất nước lúc bấy giờ.

Đông Kha

Exit mobile version