Danh ca Kim Tước – Giọng hát mẫu mực của dòng nhạc tiền chiến, bán cổ điển

Những người yêu nhạc tiền chiến sẽ không thể quên được một giọng hát cao, trong, thanh nhã và hiếm quý của ca sĩ Kim Tước – Một ca sĩ của dòng nhạc tiền chiến, thính phòng đã đi hát từ thập niên 1950.

Tác giả Chu Văn Lễ có nhận xét về giọng hát thượng thặng của Kim Tước như sau:

Ca sĩ Kim Tước có một giọng hát cao vút, chất giọng khỏe, dầy và vang rền nên vẫn có thể làm người nghe cảm thấy thoải mái khi ngân nga ở những nốt cao chót vót. Giọng hát đó khi xuống trầm lại dìu dặt tình tứ chứ không tắt lịm. Ca sĩ Kim Tước biết sử dụng kỹ thuật thanh nhạc để diễn tả cảm xúc của bài hát. 

Kim Tước không có thói quen hát nũng nịu hay làm dáng bằng giọng hát của mình. Những ca khúc được bà chọn trình bày thường mang phong cách nhạc thính phòng và đòi hỏi một trình độ thanh nhạc nhất định để diễn tả thành công.

Bà tên thật là Nguyễn Kim Tước, sinh năm 1938 tại Nam Định, là người con cả trong gia đình có 7 người con. 4 người con gái đầu đều tên Tước: Kim Tước, Thanh Tước, Minh Tước, Hồng Tước, ngoài ra còn 1 người con gái thứ tư, 2 người con trai út. Trong những người em gái này, có ca sĩ Hồng Tước từng hát trong ban Tứ Ca Nhật Trường và tham gia ban Tiếng Tơ Đồng của nhạc sĩ Hoàng Trọng trước 1975.

Mẹ của Kim Tước là một người Tây học, từng hát ở đài phát thanh Hà Nội một thời gian vào thập niên 1940 cùng với cô em ruột nổi tiếng là danh ca Minh Đỗ. Cha của Kim Tước thuộc dòng dõi của Nguyễn Trãi, thuộc gia đình Nho học, nhưng ông cũng được theo học trường Tây và gặp mẹ của Kim Tước.

Danh ca Kim Tước năm 17 tuổi

Khi còn nhỏ, Kim Tước theo học chương trình Pháp và được học piano từ khi mới 3,4 tuổi, sau đó theo học nhạc sĩ Nguyễn Cầu. Bà hay theo dì ruột là Minh Đỗ đến chơi ở đài phát thanh. Đến đầu thập niên 1950, khi còn rất nhỏ, bà ghi danh tham dự cuộc thi tuyển lựa ca sĩ và được giải nhất bên phía nữ và từ đó được cộng tác với đài khi chỉ mới 13, 14 tuổi.

Tại đài phát thanh, Kim Tước được hát cùng với ban nhạc của nhạc sĩ Vũ Thành, là người chú họ của mình (vợ của nhạc sĩ Vũ Thành và mẹ của ca sĩ Kim Tước là 2 chị em họ). Vũ Thành là một nhạc trưởng rất khó tính, nên rèn luyện được cho Kim Tước cách hát chuẩn mực của dòng nhạc thính phòng, bán cổ điển.

Năm 1954, trước khi di cư vào Nam, gia đình Kim Tước về sống ở Phát Diệm, tại đây bà được học trường sơ, học thêm nhạc và piano với các bà sơ người Pháp.

Sau đó gia đình Kim Tước di cư vào Huế, bà được theo học trung học tại trường Lycée Français De Hue và bắt đầu cộng tác với đài phát thanh Huế với các nhạc sĩ có phong cách nhạc bán cổ điển như Lê Quang Nhạc, Ngô Ganh… Nhờ đã được rèn luyện với nhạc sĩ Vũ Thành ở Hà Nội, nên Kim Tước dễ dàng được thu nhận vào cộng tác với đài phát thanh Huế.

Ở Huế được 2 năm, Kim Tước một mình vào Sài Gòn ở nhà bác ruột để theo học những năm cuối trung học ở trường Marie Curie và đậu tú tài Pháp năm 1957. Tại đây và cộng tác thường xuyên với đài phát thanh ở thủ đô. Có thể thấy Kim Tước là ca sĩ tân nhạc hiếm hoi đã được sinh sống ở 3 thành phố lớn ở 3 miền, và ở thành phố nào thì bà đều được cộng tác thường xuyên với đài phát thanh của địa phương đó. Kim Tước nói rằng nhờ hát ở các đài phát thanh bà mới có tiền đi học, vì bố mẹ vốn là tầng lớn trung lưu, nhưng vì loạn lạc, đi tản cư đã mất hết gia sản và trở nên thiếu thốn.

Kim Tước cũng là ca sĩ hiếm hoi không bao giờ đi hát ở phòng trà hay vũ trường, chỉ thỉnh thoảng hát ở các đại nhạc hội.


Kim Tước hát Giấc Mơ Hồi Hương của nhạc sĩ Vũ Thành

Có thể nói từ sau khi định cư tại Sài Gòn, sự nghiệp ca hát của Kim Tước đã bước sang một bước ngoặt mới. Tại đây, bà được theo học nhạc với nhạc sĩ Nguyễn Phụng (giám đốc trường Quốc Gia Âm Nhạc), và cũng tham gia ban nhạc đại hoà tấu – giao hưởng đầu tiên và duy nhất tại Sài Gòn do nhạc sĩ Nguyễn Phụng thành lập. Nhờ có kiến thức vững vàng về thanh nhạc cũng như khả năng thuần thục về Pháp ngữ, Kim Tước đã được vinh dự cùng với ban đại hoà tấu này trình bày một số nhạc phẩm cổ điển của Mozart trong chương trình “Đại Hội Nhạc Mozart” tại dinh tổng thống vào năm 1956. Lần trình diễn này ca sĩ Kim Tước đã vinh dự được tổng thống Ngô Đình Diệm trao tặng hoa, khi đó bà mới 18 tuổi.

Năm 1958, ban nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Phụng giải tán. Một thời gian sau, Kim Tước tham gia cộng tác với nhiều ban nhạc khác trên đài phát thanh như Ban Đại Hòa Tấu của nhạc sĩ Vũ Thành, Ban Tiếng Nhạc Tâm Tình của Anh Ngọc, Ban Hoa Xuân của nhạc sĩ Phạm Duy, Ban Tây Hồ – Tiếng Tơ Đồng của Hoàng Trọng, hay Ban Đàn Dây của Hoàng Lang…

Kim Tước và danh ca Anh Ngọc ở đài phát thanh
Kim Tước và các ca sĩ khác đang hát trên đài phát thanh, gồm có Thái Thanh, Mai Hương, Anh Ngọc, Nhật Bằng, Nhật Trường

Cho đến nay, nhiều khán giả của làng nhạc Sài Gòn thập niên 1960 vẫn chưa quên ban tam ca nổi tiếng Mộc-Kim-Châu (Mộc Lan, Kim Tước, Châu Hà) bát trên đài phát thanh Sài Gòn. Ban tam ca này được sự hướng dẫn của nhạc sĩ Hoàng Trọng và đã tạo cho mình một chỗ đứng riêng biệt trong vườn hoa tân nhạc Việt Nam.


Click để nghe Mộc – Kim – Châu hát Phố Buồn của nhạc sĩ Phạm Duy

Ba giọng ca của 3 danh ca Mộc Lan, Kim Tước và Châu Hà mang 3 cá tính khác nhau nhưng khi hát chung thì lại hòa quyện vào nhau thành một nhờ vào cách hòa thanh độc đáo của người nhạc sĩ cũng như kỹ thuật hát bè điêu luyện của cả ba người. Bộ ba này đã hợp tác với nhau một thời gian dài trong những chương trình phát thanh và truyền hình.

Bộ 3 Mộc Kim Châu: Châu Hà – Mộc Lan – Kim Tước

Nhiều người cho rằng cách hát của Kim Tước khô khan và nặng nề quá. Nhận xét như vậy không phải sai nhưng đó là vì người ta so sánh cách hát của bà với cách hát của các ca sĩ chuyên về nhạc phổ thông, đại chúng, chuyên hát luyến láy và đưa cả những cảm xúc riêng tư vào trong bài hát. Giọng hát của ca sĩ Kim Tước không phù hợp cho loại nhạc này và có lẽ chính bà cũng ý thức được điều này nên đã chọn để theo hướng đi riêng của mình.


Click để nghe tiếng hát danh ca Kim Tước hát Thu Ca (Phạm Mạnh Cương)

Do chuyên trình bày các nhạc phẩm mang âm hưởng cổ điển với phần nặng về kỹ thuật, nên Kim Tước tự nhận xét là tên tuổi của mình không được biết tới nhiều trong tầng lớp khán giả ưa thích loại nhạc phổ thông: “Tôi nhận thấy ở Sài Gòn, tên tuổi tôi không được mến chuộng nhiều trong đại chúng tại vì lối hát của tôi hơi cứng quá và nhất là hơi nặng về vấn đề kỹ thuật. Về sau này những người sau tôi như Hà Thanh hay những người khác, họ hát uyển chuyển hơn cho nên dễ đi vào quần chúng nhiều hơn và dễ được thông cảm hơn”.

Những danh ca thượng thặng của tân nhạc: Kim Tước, Châu Hà, Mai Hương, Anh Ngọc

Ngoài phần cộng tác về nghệ thuật với các đài phát thanh Quân đội, Sài Gòn, Tiếng Nói Tự Do và Mẹ Việt Nam cho đến khi rời khỏi Việt Nam vào năm 1975, Kim Tước đã từng một thời gian làm biên tập viên cho đài Tiếng Nói Tự Do cùng thời kỳ với các nghệ sĩ nổi tiếng như Từ Công Phụng, Hồ Đăng Tín, Lê Gia Thẩm và Hoàng Quốc Bảo trong thời gian từ năm 1961 đến 1964. Ngoài ra, cũng có một thời gian Kim Tước làm việc tại đại sứ quán Hoa Kỳ.

Kim Tước cùng gia đình rời Việt Nam vào đúng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau thời gian ở trại tị nạn, bà sống khoảng 6-7 ở Hawaii trước khi trở lại Cali để tham gia một số sinh hoạt âm nhạc.

Danh ca Kim Tước năm 2019. Ảnh: Jimmy Show

Xin đăng dưới đây bài nói chuyện của danh ca Kim Tước với nữ ký giả Trịnh Thanh Thủy để bạn đọc hiểu rõ hơn về sinh hoạt âm nhạc miền Nam trước đây:

Kim Tước: Lúc đó tôi mới 11 tuổi, Bà Minh Đỗ – là dì ruột của tôi đang hát ở đài phát thanh Hà Nội. Tôi mới di cư về thì bà ấy dẫn đi học đàn piano với giáo sư Nguyễn Cầu. Nhà bà có cái đàn piano nên tôi cứ đến tập. Có một hôm bà ấy dẫn tôi lên đài phát thanh để xem bà ấy hát. Đúng vào ngày hôm đó có một cô ca sĩ bị đau nên bà ấy bảo cứ cầm bài mà hát đi. Vì từ nhỏ tôi đã biết xướng thanh nên cầm cái bài hát là hát luôn.

Một thời gian ngắn sau, đài phát thanh Hà Nội bắt đầu tổ chức những cuộc tuyển lựa ca sĩ và tôi đã ghi tên dự thi ngay trong lần thi hát đầu tiên. Tôi chiếm giải nhất về giọng ca nữ, còn Thanh Hiếu đoạt giải nhất dành cho giọng ca nam.

Tôi không thấy gì hết ngoài sợ. Mà sợ lắm cơ, vì mấy ông giám khảo toàn những tay đại cổ thụ của âm nhạc và đài phát thanh khảo thí như Hoàng Trọng, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Trần Văn Nhơn… Tôi phải qua đủ các vòng thi cho đến khi vào chung kết thì đã quá khiếp vì sợ. Mãi cho đến lúc sau này lớn lên gặp họ lại vẫn còn sợ. Đã vậy về đến nhà có thêm nỗi sợ bố la mắng, vì ông là người nệ cổ, không thích âm nhạc và theo quan niệm “xướng ca vô loại”. Do đó tôi không cảm thấy vui vẻ gì dù được đoạt giải.

Đó là bài “Ngọc Lan” của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Ai cũng bảo bài đó khó hát tại sao lại chọn. Tôi chẳng biết tại sao.

Sau khi đoạt giải tôi bắt đầu đi hát ở các đài phát thanh để kiếm tiền giúp đỡ gia đình vì khi ấy gia đình mới di cư từ ngoài Bắc vào còn túng thiếu lắm. Tôi là chị cả trong gia đình 5 con và rất thương hai cụ, nhất là mẹ tôi. Tôi còn nhớ một kỷ niệm suốt đời không bao giờ quên. Khi ấy mẹ sinh cô em thứ ba, tôi khoảng 3, 4 tuổi, mẹ bị đau ngực vì cô em bú không hết nên sữa ứ. Cụ rất nhiều sữa, bà bắt tôi bú cho ngực đỡ đau, đỡ căng. Ối giời ơi, tôi không thể tưởng tượng được sao ngày ấy tôi có thể làm được. Bên Việt Nam thường sau một tuổi, đứa bé thường dứt sữa, tôi lớn rồi mà vẫn phải bú sữa ứ.

Mấy đứa sau cũng thế, do đó mỗi lần cụ sinh tôi sợ lắm, một nỗi sợ kinh hoàng xen lẫn mắc cỡ. Đã vậy sau khi sinh em, cụ thường đau tay chân, tôi hay ngồi giúp mẹ bóp tay chân cho đỡ mỏi. Khi lớn lên, lập gia đình và có con tôi mới hiểu và thương mẹ nhiều hơn. Trời sinh ra phụ nữ với thiên chức làm mẹ phải chịu nhiều đớn đau khi sinh con, vượt cạn, lại còn chăm sóc chúng, cho bú mớm, chịu biết bao đau đớn, nhọc nhằn. Ngày xưa các cụ còn sinh con ở nhà, nên tôi chứng kiến cái cảnh đau đẻ kinh khủng như thế nào.

Tôi cảm thấy may mắn và hãnh diện được trải nghiệm và sống qua những cảnh tượng rất hạnh phúc. Thuở ấy, mỗi mùa hè, mẹ cho về nhà bà ngoại ở Nam Định. Cụ ngoại có một trang trại (ấp) giống như đồn điền vậy. Cụ vừa làm ruộng vừa nuôi gia súc như trâu, bò, ngựa, dê, heo… Trong trại có một villa lớn. Cụ bắt tôi đi chăn bò, cho bò ăn, vắt sữa bò. Khi ấy, tôi còn bé, sức thì yếu, bàn tay bé tẹo. Tôi nắm cái vú lớn con bò mà vắt, vừa vắt, tay vừa đau, mà con bò thấy khó chịu, đau, nó đá cho một phát. Tuy thế được học những cái ở nhà quê, tôi lấy làm sung sướng lắm. Cụ dạy nuôi tằm, dệt cửi, tự dệt quần áo để mặc. Sau khi dệt thành vải may quần đùi, tôi đem bùn và củ nâu giã nhỏ trét vào vải để nhộm nâu rồi đem phơi. Tôi còn được học cách làm trà sen. Mỗi sớm tinh sương, tôi chèo thuyền nan, thuyền thúng ra hồ sen. Men hai bên bờ hồ có trồng cây vối, tôi hái nụ vối về nấu nước pha trà. Rồi hái sen về, bóc hột đem phơi, và lấy những tia vàng của hoa, đem về ướp trà cho các cụ uống.

Giọng hát của tôi giúp tôi có thể lên cao và xuống thấp rất dễ dàng, nốt cao nhất tôi có thể lên là nốt Đô. Chuyện mấy ông ngợi khen, thật ra tại ngày xưa mấy ông nhạc trưởng hay nhạc sĩ chỉ muốn ca sĩ hát cho đúng kỹ thuật và bài bản mà thôi, không được nhét tình cảm vào. Trong khi họ sáng tác thì lại dựa trên tình cảm mà viết, nhưng nếu ca sĩ hát theo lối cảm xúc dạt dào thì họ không bằng lòng.


Click để nghe danh ca Kim Tước hát Sơn Nữ Ca

Riêng tôi, họ viết sao tôi hát theo làm vậy, không tự mình uốn éo, luyến láy thêm bớt. Ngoại trừ họ viết uốn éo thì tôi uốn éo theo. Một thời gian sau, theo thời thế, dĩ nhiên họ phải chịu sự thay đổi. Chính họ cũng cảm thấy hát cứng quá thiếu sự truyền cảm và khi viết nhạc họ cố viết sao cho có sự truyền cảm hơn. Giới ca sĩ những thế hệ sau này, tự họ tạo ra lối hát riêng của họ. Tôi thì tôi không thể bắt chước, cũng như người khác không thể bắt chước lối hát của tôi được. Thành ra các nhạc sĩ hiểu ra, người ca sĩ này sẽ hát theo lối này, người khác sẽ hát theo lối khác, tự họ sẽ phải mềm mại đi để theo những lối hát khác nhau của các ca sĩ.

Ngày ấy tôi, Châu Hà, Mộc Lan hát trong các ban nhạc khác nhau và nhận thấy ba giọng hát hợp nhau (nhưng không giống nhau), nên đã gom lại thành ban tam ca Mộc Kim Châu. Không dám tự hào nhưng ba giọng hát chúng tôi rất hoà hợp. Thí dụ giọng của chị the thé, tôi có thể hát the thé. Nếu giọng của chị xuống trầm, tôi có thể làm theo như vậy được. Chúng tôi đã hiểu nhau đến độ theo nhau, nương nhau mà hát rất thoải mái. Vì thế nó thành một ban tam ca rất quyện nhau.

Chúng tôi hát với nhau sung sướng đến độ vừa hát xong một bài, cả ba cùng phá lên cười. Chúng tôi cùng tự hỏi, tại sao có thể hát giống nhau, hợp nhau như một cây đàn đến thế mà không ai ganh tị lẫn nhau. Hát hợp ca khó ở chỗ đó, không có người nào trổ giọng ra, để tỏ ra giọng mình hay hơn, nổi trội hơn người khác.

Chúng tôi được nhạc sĩ Hoàng Trọng hướng dẫn và viết hoà âm cho. Chúng tôi trình diễn ở các đài phát thanh, nhiều nhất là Đài Phát Thanh Sài Gòn. Chúng tôi cũng xuất hiện ở vài sân khấu xi nê trong phần phụ diễn trước khi chiếu. Ngày ấy 1 xuất xi nê chỉ dài độ 1 tiếng, phần phụ diễn thường là tân nhạc hoặc có khi là hài kịch. Ban tam ca ra trình diễn được xem là mới mẻ vì lúc ấy làm gì có tam ca. Chỉ có ban tam ca chúng tôi là độc nhất thôi.

Chúng tôi cũng hát phụ hoạ cho các ca sĩ thâu đĩa như Hà Thanh hay Khánh Ly nhưng chưa bao giờ chúng tôi thâu đĩa với nhau. Đôi khi chúng tôi gọi đùa nhau là “Les Trois Mousquetaires” (Ba chàng ngự lâm quân pháo thủ).

Ban Tam ca Tiếng Tơ Ðồng hải ngoại: Kim Tước – Mai Hương – Quỳnh Giao

Sau 1975, Ban Tam ca Tiếng Tơ Ðồng do tôi và Mai Hương, Quỳnh Giao ra đời nhưng vì mỗi người định cư ở một nơi, lâu lâu mới họp lại hát rất bất tiện nên chỉ hoạt động được một thời gian.

Ngày đó tôi đi làm và ca hát, nhà tôi thì đi lính, xa nhà hoài, đời sống cả hai thiếu sự gần gụi. Sau này chúng tôi xa nhau thật, vì thiếu sự vun đắp tình cảm đưa đến sự tan vỡ. Tuy nhiên khi còn ở với nhau, tôi vẫn làm tròn trách nhiệm, nghĩa là trong các buổi tiệc tùng như tiếp đón các quan chức trong nước cũng như ngoại quốc, tôi đều lo toan. Tỷ như trong vai trò tiếp đón ông Nguyễn Cao Kỳ, các hạm trưởng Hải Quân hay Chỉ Huy Trưởng Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ, mọi người đều giao lại cho tôi vì thời đó rất ít các phu nhân thạo ngoại ngữ, và tôi nói được cả tiếng Anh lẫn Pháp. Ngày ấy, tiếng Việt với tôi lại là ngôn ngữ thứ hai. Ngay từ nhỏ, tôi may mắn được các cụ cho đi học trường sơ Pháp, nói toàn tiếng Pháp. Bà sơ dạy tiếng Pháp lại gốc Ăng Lê nên tôi được học cả tiếng Anh, giọng Anh của tôi lai giọng Ăng Lê.

Tuy được giáo dục trường lớp Tây Âu nhưng nếp sống của tôi vẫn trong vòng lễ giáo vì bố tôi là người trọng Nho học nên làm gì thì làm tôi cũng phải khép vào khuôn khổ Việt Nam. Ước vọng của tôi vẫn là được tự do và phóng khoáng, nên một ngày nào đó nó bung ra. Khi qua đến Mỹ tôi hấp thụ được văn hoá và lối suy nghĩ của họ nên trong lối hành xử tôi thấy thoải mái và tự do hơn.

nhacxua.vn biên soạn
Nguồn tham khảo: Jimmy show, bài viết của tác giả vanchus, Trịnh Thanh Thuỷ

 

Exit mobile version