Nhạc sĩ Văn Giảng sinh ngày 12 tháng 5 năm 1924 tại Huế trong một gia đình trung lưu. Thừa hưởng năng khiếu thiên phú gia tộc về âm nhạc, vì ông nội của ông là một nhạc sĩ cổ nhạc rất giỏi, nên nhạc sĩ Văn Giảng cũng có khiếu về âm nhạc từ lúc nhỏ. Ngày còn bé, nghe người ta chơi một loại nhạc khí nào là ông có thể về mò mẫm tự học lấy và thành công trong việc sử dụng loại nhạc khí đó.
Cũng như mọi người thích âm nhạc và quyết tâm chơi nhạc, loại đàn dễ học nhất cho mọi người là đàn mandoline, nhạc sĩ Văn Giảng cũng vậy, khi bắt đầu ông đã học đàn măng cầm và sau đó mới đến tây ban cầm (guitar).
Thưở nhỏ có một người bạn lớn tuổi hơn ông biết đàn tây ban cầm, Văn Giảng muốn tầm sư học đạo, đến nhà ông này để nhờ chỉ dạy, nhưng người này bắt ông phải trả công bằng một cây đàn guitar. Không thể có nhiều tiền như vậy nên nhạc sĩ Văn Giảng về nhà tìm tòi tự học lấy. Chỉ một thời gian sau, ông vượt qua tài nghệ của ông “thầy hụt” kia và ông này phải nhờ Văn Giảng chỉ lại cho. Nhờ có biệt tài như vậy mà nhạc sĩ Văn Giảng có thể sử dụng rành rẽ nhiều nhạc khí cổ kim, trở thành một nhạc sĩ tài giỏi và đào tạo rất nhiều môn sinh có trình độ sau này.
Không chỉ nổi trội trong lãnh vực âm nhạc mà nhạc sĩ Văn Giảng còn giỏi về nhiều mặt và đều là tự học hỏi. Ông vừa làm giáo sư âm nhạc ở Huế, ông vừa tự học để rồi sau đó lặn lội vào Saigon thi lấy bằng tú tài và bằng cử nhân.
Ông tốt nghiệp Anh văn ở Hội Việt Mỹ và trúng tuyển cuộc thi tuyển sinh viên nghiên cứu về âm nhạc ở ngoại quốc, được xuất dương du học tại trường Âm nhạc lớn của Hoa Kỳ ở Hawaii và Bloomington. Ở Hoa Kỳ, Văn Giảng đã tốt nghiệp với lời khen của Ban Giám khảo và được cấp thêm học bổng để nghiên cứu bậc cao học âm nhạc. Sau đó ông trở về nước và được đề cử làm Giám đốc trường Quốc gia Âm nhạc Huế.
Phần đông những sáng tác của nhạc sĩ Văn Giảng thuộc loại hùng ca như “Thúc Quân” (1949), “Lục Quân Việt Nam” (1950), “Đêm Mê Linh” (1951), “Quân Hành Ca” (1951), “Qua Đèo” (1952), “Nhảy Lửa” (1953)… nhưng ít người được biết nhạc sĩ Văn Giảng còn có một biệt hiệu khác là “Thông Đạt” với ca khúc bất hủ “Ai Về Sông Tương”, được nhiều người biết đến:
Ai có về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Bao ngày ôm mối tơ vương
Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương
Tâm hồn mơ bóng em luôn
Mong vài lời em ngập hương…
Bài ca này được tác giả viết vào năm 1949 với cung La trưởng, uyển chuyển tha thướt trong phần lời lãng mạn, trữ tình, là một bản nhạc gối đầu giường, nằm lòng của thanh thiếu niên nam nữ trong những thập niên 1950 – 60.
Về ca khúc này, có một câu chuyện khá thú vị như sau: Trong những thập niên 1940, 1950, ở Huế ai cũng biết ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà Xuất bản Tinh Hoa Huế (Khác nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam ở Saigon do nhạc sĩ Lê Mộng Bảo làm giám đốc) in ấn và phát hành một số nhạc phẩm ít ỏi của thời đó.
Là nhạc sĩ, đương nhiên Văn Giảng chơi thân với ông Tăng Duyệt, vì một số hành khúc của ông đều do nhà xuất bản Tinh Hoa Huế của ông Tăng Duyệt ấn hành. Một hôm trong lúc vui miệng, ông Tăng Duyệt có ngụ ý bảo rằng nhạc sĩ Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca thôi còn về những bài tình ca không phải sở trường của Văn Giảng.
Nhạc sĩ Văn Giảng nghe xong không nói gì, chỉ về nhà và âm thầm lấy giấy bút viết bài “Ai Về Sông Tương”, không ghi tên tác giả là Văn Giảng như mọi khi mà đề tên tác giả là Thông Đạt – một bút hiệu mới toanh trong làng tân nhạc Việt Nam thời đó. Bản “Ai Về Sông Tương” được tác giả Thông Đạt gửi đến các đài phát thanh ở Hà Nội, Huế và Saigon, và cả nước đều nghe “Ai Về Sông Tương” của Thông Đạt trong thời gian sau đó:
Thu nay về vương áng thê lương
Vắng người duyên dáng tôi thương
Mối tình tôi vẫn cô đơn
Xa muôn trùng lưu luyến nhớ em
Mơ hoài hình bóng không quên
Hương tình mộng say dịu êm…
Bút danh Thông Ðạt cũng là sự kết hợp của hai pháp danh Nguyên Thông của Văn Giảng và Tâm Ðạt của người vợ ông.
Vợ chồng nhạc sĩ Văn Giảng chụp năm 1949
Sau nhiều lần được nghe bài “Ai Về Sông Tương” nổi tiếng trên làn sóng điện, qua các đài phát thanh, ông Tăng Duyệt gặp Văn Giảng để hỏi thăm rằng có biết nhạc sĩ Thông Đạt là ai không để ông thương lượng mua bản quyền xuất bản nhạc phẩm Ai Về Sông Tương. Nghe vậy, nhạc sĩ Văn Giảng tảng lờ như không biết Thông Đạt là ai.
Rồi một hôm có hai người bạn trẻ của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng và nhà văn Lữ Hồ tình cờ đến nhà Văn Giảng chơi, tình cờ thấy bản thảo bài “Ai Về Sông Tương” trong xấp nhạc trên bàn, nên bèn nói cho ông Tăng Duyệt biết. Ông này mới lái xe ngay tới nhà Văn Giảng, và vài ngày sau đó, giới ngưỡng mộ tân nhạc mới có một bản nhạc tờ được phát hành của ca khúc Ai Về Sông Tương trong tay, để mà ngân nga cho đỡ thương nhớ những khi trái tim rung động vì một bóng hình nào đó.
Nhạc phẩm “Ai Về Sông Tương” đã chiếm kỷ lục tái bản thời đó với 6 lần in thêm trong tháng đầu tiên và được thính giả Đài Phát Thanh Pháp Á chọn là bài nhạc hay nhất trong năm 1949. Qua bút hiệu Thông Đạt, chúng ta còn được thưởng thức những sáng tác sau này: “Đôi Mắt Huyền”, “Hoa Cài Mái Tóc”, “Tình Em Biển Rộng Sông Dài”, “Xin Đừng Chờ Em Nữa”…
Ngoài hai bút hiệu trên, Văn Giảng – Thông Đạt còn một bút hiệu thứ ba để sáng tác những bài Phật giáo. Đó là bút hiệu Nguyên Thông được dùng để ghi trên những nhạc phẩm như “Từ Đàm Quê Hương Tôi”, “Mừng Đản Sanh”, “Ca Tỳ La Vệ”, “Vô Thường”, “Hoa Cài Áo Lam”…
Cũng trong lãnh vực âm nhạc, nhờ xuất thân từ một gia đình có truyền thống cổ nhạc, Văn Giảng thích tìm tòi và nghiên cứu nhạc cổ truyền Việt Nam. Năm 1956, ông đã tìm ra phương pháp ký âm cho nhạc sĩ cổ truyền có thể nhìn bài bản mà trình tấu chung với nhạc sĩ tân nhạc. Từ đó, ông thành lập ban cổ kim hòa điệu “Việt Thanh”, một ban nhạc đầu tiên trong nước dưới hình thức tân cổ hòa điệu với những nhạc khí tranh, tỳ, nhị huyền, nhị hồ, đàn nguyệt… hòa tấu chung với dương cầm, tây ban cầm, đại hồ cầm…
Trong lĩnh vực này, ông đã hoàn thành tác phẩm độc đáo “Ai Đưa Con Sáo Sang Sông”, một bản đại hòa tấu, thời lượng 60 phút, trình diễn bởi các nhạc sĩ cổ truyền. Ông cũng đã soạn nhiều sách giáo khoa về âm nhạc, hoàn thành quyển “Kỹ Thuật Hoà Âm” dày 350 trang được dùng làm tài liệu dạy âm nhạc ở các trường.
Tết Mậu Thân 1968, bạn thân của ông là Tăng Duyệt đã bị chết trong dịp này. Cảm thấy sinh sống ở Huế bất an, nhạc sĩ Văn Giảng vào Saigon lập nghiệp từ năm 1969 và nhanh chóng làm quen được với nhịp sống âm nhạc của thủ đô. Ông soạn hòa âm cho hãng đĩa Asia Sóng Nhạc, dạy nhạc tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon, tham gia sinh hoạt ca nhạc ở đài phát thanh, đài truyền hình. Ông cũng được Bộ Văn Hóa Giáo Dục đề cử làm Trưởng Phòng Học Vụ Nha Mỹ Thuật, đảm trách học vấn của các trường Âm nhạc Saigon, Huế và các trường Cao đẳng Mỹ thuật.
Trong thời gian này, Văn Giảng gặp nhạc sĩ Châu Kỳ, người bạn đã chỉ cách ông có thể làm giàu nhờ viết nhạc. Ông bắt đầu sáng tác những tình khúc “hái ra tiền”. Ký bản quyền cho hãng dĩa xuất bản Asia, Sóng Nhạc, Văn Giảng đủ tiền mua một căn nhà khang trang mặt tiền trên đường Thoại Ngọc Hầu. Thị hiếu của quần chúng bình dân cả nước lúc bấy giờ là mua những bản nhạc vàng thịnh hành của các nhạc sĩ. Những bản nhạc của Văn Giảng như “Hoa Cài Mái Tóc,” “Tình Em Biển Rộng Sông Dài,” “Ðôi Mắt Huyền” được ấn hành hàng chục nghìn bản, phổ biến rộng rãi trên thị trường, điều mà trước đây, khi còn là một “nhạc sĩ công chức” ở Huế, Văn Giảng không hề nghĩ đến.
Năm 1970, ông được huy chương vàng giải Văn học Nghệ thuật của Tổng Thống (âm nhạc loại A) với sáng tác phẩm “Ngũ Tấu Khúc” (Quintet for Flute and Strings). Cùng năm này, ông được chỉ định làm Giám đốc Nghệ thuật điều hành Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm 100 nghệ sĩ tân cổ nhạc và vũ, ban vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách, ban vũ cổ truyền đại nội Huế do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba điều khiển, để tham dự Hội chợ Quốc tế Expo 70 tại Osaka (Nhật Bản).
Ngày 20/5/1982, Văn Giảng định cư tại Úc. Ở đây ông tiếp tục con đường âm nhạc, soạn và xuất bản nhiều sách nhạc lý như cách dùng hợp âm, tự học tây ban cầm, hòa âm, sáng tác, học hát, học đàn… cho đến khi qua đời vào ngày 9/5/2013, hưởng thọ 89 tuổi.
Trích bài của nhạc sĩ Lê Dinh