Trong rất nhiều nhạc sĩ đã thành danh từ trước năm 1975, có thể nói rằng nhạc sĩ Trúc Phương là tên tuổi lớn nhất của dòng nhạc vàng với rất nhiều ca khúc nổi tiếng được công chúng yêu mến suốt 60 năm qua, đặc biệt là những bài có giai điệu bolero. Nếu có danh xưng mang tên “ông hoàng của dòng nhạc bolero”, thì bất kỳ ai cũng sẽ công nhận rằng chỉ có duy nhất nhạc sĩ Trúc Phương là người xứng đáng với danh hiệu này.
Số lượng ca khúc của nhạc sĩ Trúc Phương được công chúng biết đến là khoảng gần 70 bài, hầu như bài hát nào cũng có một sức sống bền bỉ cho đến ngày hôm nay ở bất cứ nơi nào có người Việt sinh sống.
Là một nhạc sĩ tài hoa và tài năng như vậy, nhưng đi đôi với đó là những bất hạnh khi nhạc sĩ Trúc Phương phải trải qua quá nhiều đau thương và khốn khó cho đến tận giờ phút cuối cùng. Là một tên tuổi lớn, nhưng ông lại qua đời khá sớm trong hoàn cảnh rất đặc biệt, nhiều người đã viết về cuộc đời ông, nhưng phần nhiều trong số đó là phóng tác, với những thông tin đã bị những người thân trong gia đình Trúc Phương bác bỏ. Trong bài viết này, chỉ xin chọn lọc lại những thông tin có vẻ tin cậy nhất do chính ông, hoặc là người thân cận của ông kể lại.
Nhạc sĩ Trúc Phương tên thật là Nguyễn Thiên Lộc, sinh năm 1933 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Vĩnh Bình (nay là Trà Vinh) ở vùng hạ lưu sông Cửu Long. Cha của Trúc Phương là một nghệ sĩ hát bội, sau chuyển qua hát cải lương, nên Trúc Phương cũng yêu thích nghệ thuật từ nhỏ vì ảnh hướng từ cha.
Từ giữa thập niên 1950, ông sinh hoạt văn nghệ với các nghệ sĩ ở ty Thông Tin tỉnh Vĩnh Bình một thời gian ngắn, đến năm 1957 thì lên Sài Gòn tìm đến nhạc sĩ Trịnh Hưng để học về kỹ thuật sáng tác. Nhạc sĩ Trịnh Hưng là một người chuyên sáng tác những ca khúc về đồng quê, và khuynh hướng này đã ảnh hưởng phần nào đến những sáng tác của Trúc Phương trong những năm đầu của sự nghiệp.
Bài hát đầu tay của nhạc sĩ Trúc Phương là Chiều Làng Em, Tình Thương Mái Lá, mang niềm nhớ nhung của ông về hình ảnh thanh bình ở nơi quê xưa. Ngay sau đó, một bài hát khác viết về thôn quê cũng rất nổi tiếng với giai điệu mambo trong sáng, vui tươi là Tình Thắm Duyên Quê.
Ca khúc giai điệu bolero đầu tiên mà nhạc sĩ Trúc Phương sáng tác là Đò Chiều năm 1959, và sau đó là ca khúc được xem là bài bolero kinh điển: Tàu Đêm Năm Cũ, được ông viết vào đầu thập niên 1960 để tặng cho những người lính/sĩ quan phải đi xa nhà vì chính sách hoán đổi công tác của chính quyền thời bấy giờ: Công chức ở miền nam ra miền Trung công tác, và ngược lại.
Nhạc của Trúc Phương có phong cách rất riêng biệt khó lẫn với các nhạc sĩ khác. Các bài hát đều có lời ca hoa mỹ, bay bướm nhưng không cao xa, càng nghe người ta càng thấy tràn đầy cảm xúc. Ngoài dòng nhạc tình tự quê hương trong thời gian đầu, thì sau đó hình như Trúc Phương chỉ viết duy nhất nhạc về tình yêu, với những nhớ thương, mong đợi, ưu tư, hy vọng, ly tán, đoàn viên. Đó là những cảm xúc rất thật, gần gũi với cuộc sống và dễ đi vào lòng người.
Nhạc sĩ Trúc Phương lập gia đình với một phụ nữ ở Bến Tre vào cuối thập niên 1950 và có tổng cộng 6 người con, người con gái đầu tên là Trúc Loan đã kể về cha mình như sau:
“Ba tôi viết nhạc và nổi tiếng từ rất sớm nhờ dòng nhạc boléro chậm, trữ tình của ông dễ nhớ, dễ nghe. Ngoài cây đàn guitar thường xuyên bên cạnh, ba tôi còn biết chơi thành thạo các nhạc cụ khác. Hồi còn nhỏ xíu, có lần theo ba đi Đại nhạc hội, ba tôi còn đàn contrabass trong dàn nhạc nữa, lúc đó tôi rất ngạc nhiên vì cây đàn quá to này, ba phải đứng mới cầm được nó… Khi chơi với các con, ba tôi thường lấy cây harmonica “khẩu cầm” ra thổi…
Ba gặp má tôi khi bà còn đang đi học. Ba cưới ngay khi má chỉ 16 tuổi. Tôi được sinh ra vào thời điểm ba tôi viết nhạc nhiều nhất. Dù sau đó, tôi còn có thêm 5 đứa em nữa, nhưng ba vẫn luôn cưng tôi nhất nhà.
Ba tôi là một người đàn ông rất yêu gia đình, thương vợ thương con. Ông cũng là 1 người con, người cháu rất có hiếu. Ngày xưa, dù nghèo, ở nhà thuê, nhưng ba tôi cũng nuôi bà cố tôi chu đáo. Khi làm có tiền, ba hay mua sắm đồ đạc mang về quê cho bà nội tôi. Ba tôi hiền lành, chân thật, rất lạc quan và tốt bụng. Có lẽ vì vậy nên ai cũng quý mến. Tính ba tôi lại rất nghệ sĩ, không vụ lợi, không tính toán nên không có dư dả. Gánh nặng cơm áo gạo tiền, má tôi phải gánh vác từ lúc ba tôi phải nhập ngũ”.
Tuy đã có gia đình từ rất sớm, nhưng với tính tình phóng khoáng của một nhạc sĩ tài hoa, nhạc sĩ Trúc Phương đã xiêu lòng trước nhiều người đẹp, trở thành nguồn cảm xúc bất tận để ông viết nhiều ca khúc nhạc vàng nổi tiếng, trong đó bài Hai Chuyến Tàu Đêm được ông sáng tác khi trên tàu về thăm ở yêu ở tỉnh Bình Tuy (nay là Bình Thuận).
Click để nghe nhạc Trúc Phương thu âm trước 1975
Có một điều đặc biệt, là hầu hết những ca khúc buồn nhất của nhạc sĩ Trúc Phương như là Thói Đời, Buồn Trong Kỷ Niệm… đều được ông sáng tác khi đang tràn ngập hạnh phúc, cũng như ở đỉnh cao của sự nghiệp cả về tiếng tăm lẫn tài chính. Những cảnh đời buồn bã đó trong bài hát chỉ đến với ông vào thời gian sau này, như là một lời tiên tri định mệnh của số phận. Sau này, trong lần ghi hình hiếm hoi trong những năm cuối đời, ông cho biết:
“Bài Buồn Trong Kỷ Niệm được tôi sáng tác trong lúc vô cùng hạnh phúc, bởi lúc đó mới lấy vợ có đứa con đầu tiên, lúc đó đứa con gái mới có 2 tháng mấy, 3 tháng. Tôi đang ngụp lặn trong hạnh phúc. Còn việc tôi viết bài đó thì không hiểu vì sao tôi viết.
Tôi nghĩ là sau này, cái bài đó tiên tri cho mối tình của tôi. Tức là nó báo cho tôi rằng sẽ có một cái ngày mà tôi nhìn về kỷ niệm, về cái nỗi buồn kia. Thật ra thì lúc đó tôi rất hạnh phúc. Tôi cảm ơn các tác phẩm, đã cho tôi những ngày biết trước cuộc đời tôi như thế, mà phần lớn tác phẩm đều có như thế, ngoài “Buồn Trong Kỷ Niệm” ra, còn một số tác phẩm khác”
Tổng số lượng sáng tác được công chúng biết đến của nhạc sĩ Trúc Phương là gần 70 bài, nhiều bài phổ biến trong suốt thập niên 1960 và cho đến tận hiện nay. Bài hát cuối cùng của ông là Xin Cảm Ơn Đời, được viết vào tháng 3 năm 1995 khi ông được đón nhận những tình cảm thân ái mà đồng nghiệp trong và ngoài nước gửi đến vì biết được hoàn cảnh bi đát của ông vào những năm cuối đời. Bài hát này cũng như là lời tâm tình, uẩn khúc mà ông muốn gửi lại cho đời lần sau chót.
Cuối thập niên 1960, nhạc sĩ Trúc Phương từng mở lớp nhạc ở số 33/230, đường Gia Long, Gò Vấp gọi là “Trúc Phương Tự Lực”, đào tạo được một số ca sĩ như Thy Lệ Dung, Thy Lệ Huyền, Chinh Thông nhưng không có ca sĩ nào nổi tiếng.
Nhắc đến nhạc sĩ Trúc Phương, ai cũng nhớ đến giọng hát Thanh Thúy. Cho dù nữ ca sĩ này đã trở thành một trong những ca sĩ nổi tiếng nhất Sài Gòn ngay từ lúc cuối thập niên 1950 khi chưa gặp Trúc Phương, sang đến đầu thập niên 1960, nhạc Trúc Phương và tiếng hát Thanh Thúy đã trở thành sự kết hợp có thể xem là thành công nhất của thể loại nhạc vàng. Trong một bài tưởng niệm nhạc sĩ Trúc Phương đăng trên báo Thế Giới Nghệ Sĩ, ca sĩ Thanh Thúy viết:
“Anh và tôi không hẹn, nhưng đã gặp nhau trên con đường sống cho kiếp tằm. Anh trút tâm sự qua cung đàn, còn tôi qua tiếng hát. Trong khoảng thập niên 60, tên tuổi anh và tôi như đã gắn liền với nhau: nhạc Trúc Phương, tiếng hát Thanh Thúy.
Như một định mệnh, tôi vào đời ca hát đúng vào thời điểm anh say mê sáng tác, và tình cờ trở thành vị sứ giả đem tâm sự anh đến mọi người, những người không nhiều thì ít cùng mang một tâm sự với anh. Tâm sự về tuổi thơ mộng, về tình yêu dịu dàng của đôi lứa (dù trong bối cảnh đau thương của đất nước), về chuyện tình dở dang, về cuộc đời…”
Về bút danh là Trúc Phương, một người cháu họ bên vợ của nhạc sĩ kể lại rằng sau khi có những sáng tác đầu tay là Chiều Làng Em, Đò Chiều… thì chàng nhạc sĩ trẻ mang tên Trần Thiên Lộc vẫn chưa lấy bút danh Trúc Phương. Lúc đó ông có một người anh họ bên ngoại đặt tên cho 10 người con đều có tên lót là Trúc, trong đó có người con gái tên Trần Trúc Phương đã mất lúc 1 tuổi. Có lẽ vì thích tên này, hoặc vì một lý do nào đó khác mà Trần Thiên Lộc xin phép người anh để lấy tên Trúc Phương để làm bút danh sáng tác cho mình. Sau này khi có gia đình, ông cũng đặt tên cho cả 6 người con có tên lót là Trúc.
Sau năm 1975, nhạc sĩ Trúc Phương ở lại Sài Gòn. Năm 1976 ông cố gắng vượt biển bất thành và bị tịch thu căn nhà riêng ở số 301 Lý Thường Kiệt, Quận 11. Sau thời gian đó là bắt đầu những tháng ngày buồn thảm của vị nhạc sĩ tài hoa này cho đến tận lúc lìa đời.
Sau khi bị tù vì vượt biển 2 lần nữa đều không thành công, ông bị lâm vào hoàn cảnh gia đình ly tán và chia tay với vợ vào khoảng năm 1979. Ra tù, sống không nhà cửa, không giấy tờ tuỳ thân. Hoàn cảnh lúc đó được chính nhạc sĩ Trúc Phương kể lại trong một cuộc phỏng vấn như sau:
“Sau những biến cố của cuộc đời, tôi phải sống một thời gian kiểu rày đây đây mai đó, bèo dạt mây trôi. Nếu đói thì không đói ngày nào, nhưng mà nói no thì chưa được ngày nào gọi là no. Tôi không có mái nhà, lúc đó thì chuyện vợ con cũng tan nát rồi.
Tôi sống nhờ nhà bạn bè. Nhưng mà khốn nỗi bạn bè cũng có hoàn cảnh bi đát, khổ sở. Không ai đùm bọc ai được. Thêm nữa, bạn bè không dám chứa tôi trong nhà, bởi vì tôi không có giấy tờ tùy thân, chẳng có thứ gì trong người cả…
Tôi nghĩ ra một cách, là tìm nơi nào có khách vãng lai để chui vào ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ. Ban ngày thì lê la trong thành phố, đến đêm phải ra xa cảng (Bến xe Miền Tây), thuê một chiếc chiếu, thế chân 1 đồng. Ngủ đến sáng, xếp chiếu trả cho người ta, lấy tiền thế chân về. Một năm tôi ngủ ở xa cảng đến 9 tháng như vậy.
Hôm nào có tiền đi xe lam, tôi ra sớm, chừng 5 giờ chiều có mặt ngoài đó thì còn có chỗ lịch sự, tương đối vệ sinh để trải chiếu nằm. Hôm nào ra trễ, chỗ tốt, sạch, vệ sinh… bị người ta giành hết rồi, tôi phải trải chiếu gần chỗ người ta đi tiểu, nhưng mà cũng đành chịu”.
Không chịu nổi được cảnh sống như vậy ở Sài Gòn, nhạc sĩ Trúc Phương lưu lạc về Trà Vinh để sống với mẹ, sau đó đi Vĩnh Long và vài nơi khác.
Giữa năm 1985, ông được nhận vào công tác tại Hội Văn nghệ Cửu Long và được cấp một căn phòng tại số 6 Hưng Ðạo Vương, thị xã Vĩnh Long để ở.
Ít lâu sau, ông trở về sống ở Sài Gòn nhờ sự giúp đỡ của bạn bè. Từ thập niên 1990, nhà báo Trần Quốc Bảo, ca sĩ Thanh Thúy ở hải ngoại đã phối hợp cùng các nhạc sĩ trong nước đã vận động, quyên góp tiền từ hải ngoại để gửi về giúp đỡ cho nhạc sĩ Trúc Phương. Một trong những người bạn thân cận với nhạc sĩ Trúc Phương trong những năm cuối đời là nhạc sĩ Thanh Sơn đã xác nhận hoàn cảnh bi đát của Trúc Phương trong một bức thư gửi cho ca sĩ Thanh Thúy như sau:
“Vợ có chồng khác, anh Phương sống lay lắt với 2 người con trai, bữa đói bữa lưng chứ chưa được bữa no”.
Vào những năm tháng cuối đời, nhạc sĩ Trúc Phương bị suyễn nặng với căn bệnh phổi hành hạ và qua đời ngày 18 tháng 9 năm 1995, được an táng tại nghĩa trang Lái Thiêu.
Sau khi mai táng xong nhạc sĩ Trúc Phương ngày 21/9/1995, ngày hôm sau đó, nhạc sĩ Thanh Sơn viết một bức thư ngỏ để gửi đến các trung tâm băng nhạc và ca sĩ ở hải ngoại, cùng những người đã hát nhiều nhạc của Trúc Phương rồi thành danh nhưng không trả tiền tác quyền cho nhạc sĩ. Dưới bức thư này có chữ ký của các nhạc sĩ ở trong nước là Thanh Sơn, Bảo Thu, Quốc Dũng, Hoàng Trang, Ngọc Sơn trước 75, Mặc Thế Nhân. Xin chép lại nguyên văn bức thư này sau đây:
Kính gửi Quý trung tâm băng nhạc, Quý anh chị em a nhạc sĩ ở Hoa Kỳ.
Nhạc sĩ Trúc Phương đã từ trần lúc 9 giờ 45 phút ngày 18 tháng 9 năm 1995 tại bệnh viện An Bình. Gia đình và một số bạn hữu đã hoàn tất việc mai táng tại nghĩa trang Lái Thiêu, ngày 21/9/1995.
Trước sự ra đi lặng lẽ và hết sức đau buồn của một nhạc sĩ tài hoa, trong hoàn cảnh thiếu thốn trầm trọng, chúng tôi: một số nhạc sĩ sáng tác bạn bè cũ của nhạc sĩ Trúc Phương, viết vài giòng chữ này kính gởi đến quý Trung tâm băng nhạc và anh chị em ca nhạc sĩ trên đất Mỹ, dù có xử dụng hay không xử dụng đến 65 bài hát của nhạc sĩ Trúc Phương, xin hãy nhỏ chút tình thương bằng tấm lòng giúp đỡ tùy hảo tâm của quý vị, để gia đình và bạn bè xây mộ theo ước nguyện, lời trăn trối sau cùng của nhạc sĩ Trúc Phương.
Chúng tôi trân trọng gởi lời cám ơn đến quý vị và kính chúc nhiều sức khỏe, công việc làm ăn được thịnh vượng.
Xin gửi lại ảnh chụp của tờ thư này, nguồn của nhà báo Trần Quốc Bảo:
Đông Kha – nhacxua.vn biên soạn