Trong làng nhạc Việt Nam, chuyện tình của danh ca Minh Trang cùng nhạc sĩ Dương Thiệu Tước được xem là chuyện tình của “trai tài, gái cũng tài”, khi họ đều là những nghệ sĩ tài năng bậc nhất của tân nhạc, và cuộc hôn nhân của đôi vợ chồng nghệ sĩ này được nhiều ngưỡng mộ. Trong bài báo được đăng tải vào khoảng đầu thập niên 1960 sau đây, chúng ta sẽ được nghe kể lại câu chuyện tình nổi tiếng của họ qua bài viết của nhà văn Mai Thảo.
Đó là một mối tình cực kỳ thơ mộng. Nó phảng phất cái cốt cách Tố Tâm, thấp thoáng cái không khí Tuyết Hồng Lệ Sử. Đó là sự chắp nối kỳ diệu của hai “lỡ một đường tơ” thành một chuyện điệu đàn. Đó là những nắng nắng mưa mưa, những gió gió bão bão, những chìm chìm nổi nổi của hai cuộc đời, nếu riêng biệt, có thể sẽ cô đơn và buồn thảm ngần nào, nhưng hợp lại, nắng đã lên, mùa xuân đã về, và hạnh phúc đã lại.
Mối tình đó, mối tình Minh Trang – Dương Thiệu Tước xứng đáng được mệnh danh là mối tình của Âm Nhạc và Làn Sóng Điện. Một Âm Nhạc làm bà mai. Và một Làn Sóng Điện làm gã đưa thư.
Bởi vì họ gặp nhau bằng tiếng hát
Bởi vì họ yêu nhau qua không gian.
Nàng ra đời trên bến Ngự. Tuổi nhỏ nghiêng khuôn mặt hiền từ xuống con sông Hương nghìn đời êm ả. Một tuổi nhỏ được ru trong những điệu hát cổ truyền. Chính tuổi nhỏ này làm nên Minh Trang ca sĩ. Bà ngoại nàng là bà Chúa Nhất, cô ruột của Cựu Hoàng ăn chơi. Cháu hoàng đế nào, cô Chúa Nhất thế. Cũng ăn chơi đến điều. Tóc đã bạc, da đã mồi, mà tâm hôn thật trẻ, nên bà Chúa Nhất ăn chơi đã chọn cho cái tuổi xế chiều được tắm đẫm trong âm thanh, trong đàn địch. Trong nhà bà, lúc nào cũng có mấy chục “con ca” suốt ngày múa hát, tập dượt. Minh Trang được bà chiều cho ngồi trên đùi gối, rồi bà già dậm chân gõ nhịp và cháu cũng nghiêng đầu ca hát theo. Thế cho nên người ta không ngạc nhiên khi thấy Minh Trang mới 6 tuổi, còn nhảy nhót đùa nghịch như một đứa con trai, mà đã am tường thấu đáo thế nào là hát Bội, ca Huế, thế nào là múa bài bông, Lưu Thủy, Kim Tiền. Những điệu múa, những ca khúc cổ vũ làm nên cái linh hồn xứ Huế ấy đi theo Minh Trang khi lớn lên, nàng theo cha qua hầu hết các thị trấn miền Trung, người thiếu nữ dòng dõi quyền quý này thời kỳ đến sống trong dinh Tổng Đốc Thanh Hoa đã vừa tròn mười tám tuổi. Bấy giờ Minh Trang đã hát, hát thật giỏi, thật vững. Từ Huế, nàng bay thẳng vào Sài Gòn, biến thành người nữ ca sĩ trụ cột của Đài phát thanh Pháp Á.
Tiếng hát truyền đi trên Làn Sóng Điện, qua núi sông, qua không gian, vượt Hải Vân, qua Lăng Tẩm, tới địa đầu đất Bắc, nó xuống thấp như một cánh bướm, tìm đường, nó từ miền Trong bay tới miền Ngoài, nó từ Sài Gòn bay tới Hà Nội. Và lọt đến tai chàng. Thế là sự gặp gỡ định mệnh. Sự gặp gỡ tình cờ chỉ từ một dư âm tiếng hát mong manh mà bền vững đời đời đời kiếp kiếp: Con sống Hương Minh Trang gặp con sông Đáy Dương Thiệu Tước.
Có điều là nàng hát rồi, tiếng hát của nàng đã được mến yêu, nhưng chàng còn là một soạn giả trẻ tuổi, chưa có một vốn liếng nào hơn là một tâm hồn nghệ sĩ chứa đầy tham vọng. Hà Nội bấy giờ là một Hà Nội chưa có soạn giả, chưa có âm nhạc. Một Hà Nội lãng mạn kiểu Lamarline, như một hiện tượng quá mùa. Một Hà Nội lố lố lăng lăng chạy theo phong trào vui vẻ trẻ trung, tôn thờ Tino Rossi như thần tượng, mê Greta Garbo như tuổi trẻ mê Liz Taylor bây giờ. Thanh niên Hà Nội hát Tây ông ổng, và chàng Dương Thiệu Tước bực mình lắm. Một đêm, đứng ngắm cái tháp Rùa trầm tư mặc tưởng giữa Hồ Gươm, một câu hỏi bỗng vang lên: Tại sao không có nhạc mới Việt Nam, những bản nhạc của những soạn giả Việt Nam? Nghĩ và làm. Bực mình và thực hiện. Cùng với mấy bạn Văn Chung, Lê Thương… Dương Thiệu Tước dùng tất cả sức say mê của mình, ném vào vùng nhạc Việt im lìm hoang vu như một mảnh đất chưa khai thác những âm thanh mở đường thứ nhất. Ban nhạc Myosotis như một hoạt động khai sinh cho loại nhạc cải cách, mang trong nó tham vọng lớn lao đổi thay thị hiếu một thời, ra chào đời giữa phố phường Hà Nội. Nó bị công kích dữ dội. Nhưng giá có bị công kích dữ dội gấp nghìn lần như thế, Tước cũng tiếp tục. Bởi vì lúc đó chàng sống say mê với lý tưởng. Bởi vì lúc đó chàng sống say mê với tình yêu.
Tình yêu mang hình trừu tượng của một âm thanh. Tiếng hát nghìn trùng xa cách ở đầu bên này Làn Sóng Điện, lọt đến tai chàng. Chàng ôm mối tình âm thanh trong lòng, mang chung cái tâm trạng Mỵ Nương chỉ thấy tiếng mà chưa thấy hình Trương Chi, nhưng chàng sống, sống hết mình với nó. Những bài hát hay nhất của Dương Thiệu Tước được hoàn thành trong thời kỳ này. Ngợi ca quê hương nàng, chàng làm Đêm Tàn Bến Ngự. Bản Sóng Lòng để nói lên cái biển tình đêm ngày dào dạt. Bản Ngọc Lan vì nhớ người xa như nhớ một mùi hương. Rồi là Buồn Xa Vắng, Bóng Chiều Xưa, Một Chiều Xuân… Đến bản Ước Hẹn Chiều Thu, thì đúng là một chiều Thu heo may mưa phùn Trang ra Hà Nội.
Thì ra âm nhạc có hồn. Thì ra âm nhạc thần giao cách cảm. Hai con thuyền cùng gió bão lênh đênh tự đó cắm neo trong cái bến nhạc, cột chặt số kiếp, lật ngược thời gian, biến mối tình cuối cùng thành mối tình thứ nhất. Sau lần hội ngộ ở nhà riêng của Tước trong Ngõ Hàng Kèn, Minh Trang vì bấy giờ đã vừa là ca sĩ vừa là nhân viên của đài phái đi công cán, phải trở lại Sài Gòn.
Tới 1951, Dương Thiệu Tước vào Nam. Một hôn lễ được cử hành ở Tòa Thị Chính. Một tiệc cưới được tổ chức ở nhà hàng Nguyễn Văn Đắc. Thời đại đổi khác. Thần thoại cũ không trở lại làm thảm kịch của người. Không có chuyện mối tình mang xuống tuyền đài chưa tan, mà chỉ có cái chuyện Dương Thiệu Tước yêu mà chưa gặp, giờ gặp mà vẫn yêu. Còn có triền núi Hoành Sơn nào, con sông Cửu Long nào cản được? Thế là con sống Hương lấy con sông Đáy. Cháu bà Chúa Nhất lấy cháu cụ nghè Dương Khuê. Thế là hai đơn âm lẻ loi hợp thành một bản hòa tầu. Dương Thiệu Tước và Minh Trang lấy nhau. Bà mai Làn Sóng Điện xoa tay mỉm cười. Cái duyên âm nhạc đã thành cái duyên cầm sắt.
Bao nhiêu năm qua, khuôn mặt hạnh phúc vẫn trẻ. Nhưng họ đã già. Chàng: mái đầu đã điểm những sợi bạc. Nàng: đã là mẹ của bảy đứa con. Những nhu cầu sinh kế càng ngày càng tăng, đòi hỏi cả hai phải làm việc cật lực. Tác giả của 200 bản nhạc trong số đã có trên 100 bản được phổ biến. Dương Thiệu Tước vẫn chưa có quyền “dưỡng lão”. Hiện làm giáo sư tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Hiện làm trường ban hai ban nhạc trên Đài Quốc Gia. Hiện đã 50 tuổi. Không lãng mạn không sôi nổi như thuở nào nữa. Mà hiền, chậm chạp, lặng lẽ và ít nói vô cùng. Đôi khi, hồi tưởng lại dĩ vãng cùng tuổi trẻ, chàng lại bảo với nàng là chàng nhớ những đêm trăng sáng trên Hồ Lãng Bạc bơi thuyền, đánh đàn. Nhớ hàng triệu con sóng vàng óng ánh trên mặt hồ tuổi cũ. Nhớ cái hình ảnh của dòng sông Đáy quê hương xanh mướt dưới bóng núi Hương Tích, mà chàng đã gửi vào bản Thuyền Mơ, là bản chàng yêu thích nhất ngoài những bản sáng tác vì nàng.
Còn nàng? Hiện là một người mẹ bốn mươi, không buồn bao giờ, xưa thích ngắm trời thật xanh, giờ thích nghe chiều mưa rơi, hiện làm kiểm duyệt viên Pháp Ngữ của Đài, hát trong hai ban của chồng, ban Hoàng Lan nữa, một hồi còn làm xướng ngôn viên cho rạp Eden, và xuất hiện rất nhiều lần trên sân khấu, được giải thưởng với Chiếc Tàu Thuốc Lá, được ngợi khen với Ngày Mai Trời Lại Sáng, Chúng Nó Ba Thằng…
Từ cuộc tình duyên lãng mạn ngày nào, bảy đứa con đã là bảy chiếc thuyền nhỏ vây quanh thuyền cha thuyền mẹ. Tron số ấy, đứa con trai đầu lòng đã xuất dương sang du học bên Đức. Và đứa thứ nhì, cô nữ ca sĩ Quỳnh Dao mười bảy tuổi, đã có một tiếng hát giống mẹ ở khía cạnh căn bản vững vàng, nhạc lý chắc chắn, là hai yếu tố đắc lực tạo thành một âm thanh điêu luyện.
Ở một bài viết trước tôi đã ghi nhận lại sự khen ngợi của ca sĩ Kim Tước về tiếng hát Quỳnh Dao. Đang ở tuổi vị thành niên mà đã có được chỗ đứng trong các ban Hoàng Trọng, Nguyễn Quý Lãm, ban Hợp Xướng ngoài hai ban của cha Tước không cần nói đến, là vì Quỳnh Dao đã hát từ năm lên tám tuổi. Vừa hát vừa tập đàn, nên tiếng hát chỉ cần nuôi dưỡng cho ấm, cho khỏe, cho lớn, những cái đó chắc chắn sẽ đến với tuổi, với đời, Quỳnh Dao khỏi lo nên ngày ngày đi học chữ về, đi học nhạc xong, là cô nhỏ tâm tính nghịch ngợm như mẹ ấy lại chạy phăng ra đầu ngõ đánh đáo, nhảy dây, cướp cờ, nhất định không chịu để âm nhạc cướp mất cái phần hồn nhiên tuổi trẻ.
Đó, mối tình của Minh Trang Dương Thiệu Tước. Đó, hạnh phúc, gia đình và đời sống của họ. Đó, một Minh Trang đã một nửa đời người, một Dương Thiệu Tước đã đời người một nửa, một Quỳnh Dao mà khuôn mặt, tiếng hát mới đời người có một phần tư, là ba hình ảnh nối kết đằm thắm dưới một mái nhà âm nhạc. Phần đời sôi nổi bỏ lại xa tít trong quá khứ, cặp tài từ thuở xưa đã dệt cho nhau một trong những chiếc áo tình yêu lãng mạn nhất, lãng mạn đến có thể làm thành thơ, phổ thành nhạc, viết thành truyện giờ chỉ còn là một cặp vợ chồng hòa thuận rủ nhau chạy trốn vào bóng mát của một hạnh phúc nghỉ ngơi.
Nửa tháng trước đây, đi qua một ngõ nhỏ yêu tĩnh như một con đường làng ở vùng Tân Sơn Nhất, họ đã dừng lại một căn nhà cổ, nằm nép mình dưới một bụi tre ngà. Lá tre phất nghìn ngón tay. Tiếng dương cầm của một giờ luyện nhạc thánh thót Minh Trang chợt nhớ đến cái Bến Ngự của nàng ở Huế. Dương Thiệu Tước chợt mong một ngày về Hà Nội. Nhưng họ cùng mỉm cười khi nhìn ra đầu ngõ để thấy một Quỳnh Dao đang vun vút nhảy dây trong nắng. Hiện tại ở đó, con cái đã lớn, Làn Sóng Điện làm cho Sông Hương Sông Đáy gặp nhau. Hai con sông lòng bây giờ chảy thành nhiều nhánh nhỏ. Và tiếng sóng còn hát, còn đàn, vẫn trên cái luồng âm thanh tạo thành cuộc tình của họ là Làn Sóng Điện, một làn sóng điện ngày nào đã đóng vai trò của một bà mai, một gã đưa thư cho nàng Minh Trang và chàng Dương Thiệu Tước.
Mai Thảo – Báo Kịch Ảnh
Trong bài báo này, tác giả Mai Thảo đã không nhắc đến chi tiết mà bạn đọc có thể thắc mắc, đó là 2 người con lớn của danh ca Minh Trang là con với người chồng trước. Sau đó bà nên duyên với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và có thêm 5 người con chung. Hai người con đầu tên là Bửu Minh và Đoan Trang (tức ca sĩ Quỳnh Dao), và danh ca Minh Trang (tên thật là Ngọc Trâm) đã ghép tên 2 người con của mình để làm nghệ danh Minh Trang khi cộng tác với đài phát thanh Pháp Á từ thập niên 1940, trước cả khi gặp nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
Ngoài ra cô ca sĩ con gái của Minh Trang được tác giả ghi là Quỳnh Dao, chứ không phải là Quỳnh Giao như thường thấy. Lúc sinh thời, ca sĩ Quỳnh Dao nói rằng cái tên này do chính cô đặt. Tuy nhiên khi hát trong ban Hoàng Trọng, vị nhạc sĩ gốc Bắc này thường gọi cô là Giao, nên từ đó về sau nhiều người quen gọi cái tên Quỳnh Giao hơn.
nhacxua.vn