Chẳng quá lời khi gọi Trúc Phương là “Ông hoàng nhạc Bolero”. Với cả gần trăm ca khúc, hầu như bài hát nào của ông cũng có một sức sống bền bỉ mãi cho đến ngày hôm nay ở bất cứ nơi nào có người Việt sinh sống. Tài năng của ông thì ai cũng thấy, nhưng đời ông thì lại trải qua quá nhiều bất hạnh và đau thương, khốn khổ cho đến tận giờ phút cuối cùng.
Tài hoa, mệnh bạc
Nhạc sĩ Trúc Phương tên thật là Nguyễn Thiện Lộc. Ông sinh năm 1939 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh (Vĩnh Bình) ở vùng hạ lưu sông Cửu Long. Cha ông là một nhà giáo sống thầm lặng và nghiêm khắc. Nhưng tâm hồn của chàng trai Thiện Lộc thì rất lãng mạn, yêu thích văn nghệ.
Cuối thập niên 1950, ông sinh hoạt văn nghệ với các nghệ sĩ ở ty Thông Tin tỉnh Vĩnh Bình một thời gian ngắn, rồi lên Sài Gòn học ở lớp nhạc của nhạc sĩ Trịnh Hưng và bắt đầu có những sáng tác đầu tay từ năm 1957. Bài hát “Chiều Làng Em” được ông sáng tác vào thời gian này để nhớ về khung cảnh thanh bình ở làng xóm của ông, một bài khác cũng rất nổi tiếng với giai điệu trong sáng, vui tươi là “Tình Thắm Duyên Quê”.
Không tiền bạc và không một ai thân quen ở đô thành Sài Gòn, ban đầu Trúc Phương ở trọ trong nhà một gia đình giàu có bên Gia Định và dạy nhạc cho cô con gái của chủ nhà. Không bao lâu sau thì cô gái này yêu chàng nhạc sĩ nghèo tạm trú trong nhà. Biết được chuyện này, cha mẹ cô bèn đuổi Trúc Phương đi nơi khác. Sau chuyện tình ngang trái này, Trúc Phương càng tự học thêm về âm nhạc và càng sáng tác hăng hơn. Những bài hát sau này của ông nghiêng về chủ đề tình yêu với những nghịch cảnh chia lìa.
Trúc Phương sáng tác rất dễ dàng, nhưng với bản tính trầm lặng, bi quan và khép kín sau những cuộc tình dang dở, sáng tác của ông thường mang âm điệu u buồn, thê lương như phảng phất nỗi sầu của cổ nhạc miền Nam. Nổi tiếng nhất là “Nửa Đêm Ngoài Phố” với tiếng hát liêu trai Thanh Thúy. Sau đó là “Buồn Trong Kỷ Niệm” với những câu hát đớn đau, buốt nhói tim gan người nghe như “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn. Đôi khi nhầm lẫn đánh mất ân tình cũ, có đau chỉ thế, tiếc thương chỉ thế. Khi hai mơ ước không chung lối về…”. Có người cho là bài hát này ông đã viết ra sau khi bị thất tình một cô ca sĩ lừng danh thời đó.
Nhạc của Trúc Phương có một giai điệu rất đặc biệt của riêng ông, mà khó lầm lẫn với người khác được. Nó trầm buồn, ray rứt, ưu tư và buồn phiền vì những mối tình dang dở, trái ngang. Nên khi soạn hòa âm cho những bài hát của Trúc Phương, nhạc sĩ hòa âm phải sử dụng ít nhất là một trong vài loại nhạc khí cổ nhạc như đàn bầu, đàn tranh, hay đàn cò (hoặc violon) thì mới có thể diễn tả hết cái hay của dòng nhạc Trúc Phương và người nghe lại càng thấm thía với nỗi muộn phiền, nhức nhối tim gan của ông.
Tên tuổi và tài năng sáng chói, nổi bật, nhưng tình duyên của nhạc sĩ Trúc Phương thì vô cùng lận đận. Khoảng năm 1970, Trúc Phương được một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, cao sang đài các đem lòng yêu thương ông, do rung cảm từ tài năng và những tác phẩm tuyệt vời của ông. Cả hai đã nên duyên chồng vợ. Tuy sống không giàu sang nhưng đó là những năm tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Trúc Phương và ông sáng tác sung mãn hơn bao giờ hết với hàng chục bài hát ra đời mỗi năm. Nhưng niềm vui của đôi uyên ương này không kéo dài được lâu. Sau một thời gian chung sống với nhau, những tình cảm ban đầu trở nên phai lạt dần theo năm tháng và hai người đã lặng lẽ chia tay nhau. Câu hát ngày nào lại rơi đúng vào trường hợp này “khi hai mơ ước đã không cùng chung hướng về” và “đường vào tình yêu có trăm lần vui, nhưng có vạn lần buồn”?
Sau đó, ông sáng tác bài “Thói Đời” với những câu như “Bạn quên ta, tình cũng quên ta, nên chung thân ta giận cuộc đời, soi bóng mình bằng gương vỡ nát, nghe xót xa ngùi lên tròng mắt”… và “Người yêu ta rồi cũng xa ta… “Cỏ ưu tư” buồn phiền lên xám môi …”. Thực ra phải nói là “cỏ tương tư” tức “tương tư thảo” là tên gọi văn hoa của thuốc lá. Những giọt rượu nồng của cõi “trần ai” này lại càng gợi thêm “niềm cay đắng” để cho nỗi ưu tư “in đậm đường trần”.
“Thói Đời” lại như là một lời tiên tri thật chính xác cho quãng đời còn lại của ông suốt gần 25 năm sau đó (1971-1995).
Trúc Phương có số lượng sáng tác gần 70 bài hát, được biết đến từ những năm cuối thập niên 1950 và được phổ biến nhiều trong suốt thập niên 1960 cho đến ngày nay. Cuối thập niên 60, ông còn mở một lớp nhạc ở số 33/230, đường Gia Long, Gò Vấp gọi là Trúc Phương Tự Lực đào tạo được một số ca sĩ như Thy Lệ Dung, Thy Lệ Huyền, Chinh Thông nhưng không mấy thành công.
Sau 1975, Trúc Phương vẫn còn sáng tác thêm một số bài nói về tình yêu cây lá, tình yêu quê hương nhưng hầu hết ca khúc này, như ông xác nhận, không thành công lắm, chỉ với lý do: Ông không còn cảm hứng dồi dào như những bài tình ca đã được đón nhận từ trước 1975. Xin cảm ơn đời là ca khúc cuối cùng Trúc Phương viết tháng 3 năm 1995. Lời ca khúc này có thể coi như những tâm tình, uẩn khúc nhất mà ông muốn gửi lại cho đời lần sau chót.
Sau năm 1975 thì sự nghiệp sáng tác nhạc của ông dừng lại, tất cả những ca khúc của ông đều bị cấm phổ biến và trình diễn. Ông vượt biên không thành nên mất căn nhà trên đường Nguyễn Văn Thoại (nay là Lý Thường Kiệt). Không nghề nghiệp, không nhà, ông làm đủ mọi việc để sinh sống. Với hai bàn tay trắng, ông trở về quê cũ sống nhờ vả bạn bè, mỗi nơi một thời gian ngắn. Có người hỏi sao ông không về quê ở hẳn với thân nhân, Trúc Phương đã trả lời “Má của tôi thì già yếu đang ở dưới quê Cầu Ngang (Trà Vinh), nhưng bà nghèo quá, lại phải nuôi đám cháu nheo nhóc, không đủ ăn… nên tôi không thể về đó để làm khổ cho bà thêm nữa”.
Ở dưới tỉnh nhà Trà Vinh với bạn bè xưa cũ một thời gian, Trúc Phương lại tìm đường về Sài Gòn. Ban ngày ông làm thuê, làm mướn đủ mọi thứ nghề và lang thang khắp nơi. Bạn ông kể có một dạo bạn bè cho tá túc, ông sống trong một cái chuồng heo được sửa sang chút đỉnh, mà cũng chẳng được bao lâu…
Ông có tâm sự lại vài lời xót xa, nghẹn ngào, xúc động trên một đoạn video clip ngắn ngủi về đời sống của chính bản thân ông lúc đó như sau:
Sau cái biến cố cuộc đời, tôi sống cái kiểu rày đây mai đó, “bèo dạt hoa trôi”… Nếu mà nói đói thì cũng không đói ngày nào, nhưng mà no thì chẳng có ngày nào gọi là no. Tôi không có cái mái nhà, vợ con thì cũng tan nát rồi, tôi sống nhà bạn bè, nhưng mà khổ nổi hoàn cảnh họ cũng bi đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc ai được. Ngoài ra lúc đó thì vấn đề an ninh có khe khắt, lúc đó thì bạn bè tôi không ai dám “chứa” tôi trong nhà cả, vì tôi không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có thứ gì trong người cả. Tôi nghĩ ra được một cách, là tìm nơi nào mà có khách vãng lai rồi mình chui vào đó ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ. Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì phải ra xa cảng thuê một chiếc chiếu, một chiếc chiếu lúc bấy giờ là một đồng, thế rồi ngủ cho tới sáng rồi xếp chiếc chiếu trả người ta, thế là mình lấy một đồng về, như là tiền thế chân. Một năm như vậy, tôi ngủ ở xa cảng hết 9 tháng. Mà nói anh thương, khổ lắm. Hôm nào mà có tiền để đi xe lam mà ra sớm khoảng chừng năm giờ có mặt ngoài đó thế rồi thuê được chiếc chiếu trải được cái chỗ lịch sự chút tương đối vệ sinh một tí mà hôm nào ra trễ thì họ chiếm hết rồi. Những chỗ sạch vệ sinh họ chiếm hết rồi, tôi đành phải trải chiếu gần chỗ “thằng cha đi tiểu vỉa hè”, thế rồi cũng phải nằm thôi. Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát, mà lẽ ra tôi nên buồn cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ buồn. Tôi nghĩ mà thôi, còn sống cho tới bây giờ và đó cũng là một cái chất liệu để tôi viết bài sau này.
(Ông tâm sự những dòng bên trên trong 1 video của trung tâm Asia, không lâu trước khi ông qua đời).
Nhạc sĩ Trúc Phương (ngồi) những năm cuối đời. Ảnh: Báo Thế Giới Nghệ Sĩ
Nhạc sĩ Trúc Phương âm thầm từ giã cõi đời trong cảnh nghèo nàn, bi đát và cô đơn trong căn phòng trọ tồi tàn, nhỏ hẹp ở quận 11, Sài Gòn vào ngày 18 tháng 9 năm 1995.
Nhà báo Trần Quốc Bảo có mô tả lại tình trạng sức khỏe của nhạc sĩ Trúc Phương trong cuộc gặp mặt chỉ vài tháng trước khi ông mất như sau:
“Mọi người đang ngồi cùng cười nói thì có tiếng ho sù sụ từ dưới đi lên gác. Tiếng ho như những tràng liên thanh không dứt. Mọi người cùng im lặng hẳn lại để nhìn về phía cầu thang. Lúc đó nhạc sĩ Trúc Phương mặt mày xanh xao, thân hình gầy còm đang lững thững đi lên. Hôm đó anh mặc chiếc sơ mi trắng rộng mênh mông, khó lòng ai có thể nhận ra nếu không nhờ vào đôi mắt kiếng dầy cộm và nụ cười hiền hòa cố hữu. Anh ho như người bị suyễn lâu ngày, đã vậy còn phải bước lên gác cao, chân đi liêu xiêu chập choạng. Khi bước lên tới nơi, mặt anh không còn một chút máu, bạn bè phải dìu anh vào chỗ ngồi.”
Trúc Phương ghi lại biết bao cuộc tình lãng mạn ướt át nồng nàn. “Nửa đêm ngoài phố” lang thang, tình cờ làm quen một người con gái lạ, rồi để lòng vương vấn mãi: “Buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào đời. Ðường phố vắng đêm nao quen một người” hoặc “Trở lại chuyện hai chúng mình. Khi em với anh…” làm quen, hẹn hò cùng nhau đi tới mòn lối, khiến nó trở thành “Con đường mang tên em”. Cũng có những lúc cô đơn, rút về nhốt mình nơi nhà trọ, nhưng Ðêm gác trọ chỉ nói lên nỗi buồn bâng quơ có vương chút phấn chấn nhờ thể điệu Tango, mà Trúc Phương ít khi dùng trong hầu hết các nhạc phẩm của mình. Rồi có lúc người yêu xưa tìm đến, cùng nhau ôn chuyện cũ, nhắc lại Chuyện ngày xưa, được ghi lại: “Hôm nào em đến thăm, mà quên mang tiếng cười, lặng yên không nói. Hai mươi tuổi đời qua mất rồi… Thôi em nhé, xin trả về niềm cô đơn trước, cho anh bước xuôi ngược, khi hai chúng mình, vòng tay trót buông xuôi, dù gặp nhau ta cúi mặt bước mà đi ”
Những năm cuối đời khốn khó
Kể từ sau năm 1975 cho đến khi qua đời năm 1995 là tròn 20 năm, nhạc sĩ Trúc Phương đã trải qua những năm cuối đời khốn khó. Việc này được đích thân ông nói trong 1 cuộc phỏng vấn với trung tâm Asia, và qua thông tin những người bạn ở bên cạnh ông vào cuối đời, như các nhạc sĩ Thanh Sơn, Quốc Dũng, Bảo Thu, Hoàng Trang… và nhà báo Trần Quốc Bảo.
Bức thư tay nhạc sĩ Trúc Phương gửi nhà báo Trần Quốc Bảo
Những thông tin đó đã làm cho công chúng trách cứ những người con của nhạc sĩ Trúc Phương vì đã để ông sống lay lắt. Vì vậy sau này, những người con của Trúc Phương đã lên tiếng phủ nhận cuộc sống khó khăn của cha mình là nhạc sĩ Trúc Phương. Từ đó đã xảy ra những tranh cãi về sự thật cuộc sống của Trúc Phương những năm cuối đời như thế nào. Ở dưới đây, xin trích dẫn lời của những người ở bên cạnh nhạc sĩ vào những ngày tháng cuối đời.
Nhạc sĩ Trúc Phương trên giường bệnh, cùng với Trần Quốc Bảo, Vinh Sử, Hoàng Trang, Thanh Sơn
Dưới đây là lá thư viết tay, là thủ bút của nhạc sĩ Thanh Sơn – người gần gũi với nhạc sĩ Trúc Phương những ngày tháng cuối cùng. Trong bức thư này, Thanh Sơn đã xác nhận hoàn cảnh bi thảm của Trúc Phương, nguyên văn như sau: “Vợ có chồng khác, anh Phương sống lay lắt với 2 người con trai, bữa đói bữa lưng chứ chưa được bữa no”.
Bức thư này Thanh Sơn gửi ca sĩ Thanh Thúy, cũng đã xác nhận việc kêu gọi quyên góp cho nhạc sĩ Trúc Phương với nguyên văn như sau: “Trước khi chê’t đi, anh Phương có trăn trối với anh rằng: “Khi tôi chê’t, cậu giúp con tôi lo vận động anh em đồng nghiệp để có số tiền xây cho tôi ngôi mô` kín đáo, ấm áp, đừng để tôi phải chịu lạnh giữa trời…”
Còn trong bức thư khác bên dưới, cũng do Thanh Sơn viết, (ký tên bởi các nhạc sĩ ở trong nước là Thanh Sơn, Bảo Thu, Quốc Dũng, Hoàng Trang, Ngọc Sơn – trước 75, Mặc Thế Nhân), gửi đến các trung tâm băng nhạc và ca sĩ ở hải ngoại, những người đã hát nhiều nhạc của Trúc Phương và thành danh nhưng không trả tiền tác quyền cho nhạc sĩ, để mong được họ “giúp đỡ” bằng tấm lòng tùy tâm cho nhạc sĩ Trúc Phương khi ông qua đời trong nghèo khổ.
Như vậy, theo những thông tin xác nhận từ chính nhạc sĩ Trúc Phương và bạn bè là nhạc sĩ, nhà báo ở bên cạnh ông những năm cuối đời, hoàn cảnh khó khăn và đáng thương của Trúc Phương là có thật. Ông cũng đã ra đi trong bệnh tật, còm cõi và nghèo khó. Tuy nhiên có thể có những chi tiết không tránh khỏi tam sao thất bản, phóng đại hơn một chút so với sự thật.
Tiếng hát khói sương và nhạc sĩ Trúc Phương
Nhắc đến Tiếng Hát Liêu Trai, Tiếng ca U Hoài, Tiếng Hát Khói Sương Thanh Thúy phải nhắc đến Trúc Phương. Hình ảnh Thanh Thúy là nguồn cảm hứng cho ông sáng tác nhiều tuyệt phẩm mà giọng hát Thanh Thúy đã làm cho đi vào tâm khảm bao người: Chuyện Chúng Mình, Hai Lối Mộng, Ai Cho Tôi Tình Yêu, Chiều Cuối tuần, Buồn Trong Kỷ Niệm, Bóng Nhỏ Đường Chiều, Tàu Đêm Năm Cũ… Trúc Phương đã viết tặng riêng Thanh Thúy một số ca khúc: Hình Bóng Cũ, Lời Ca Ca Nữ, Mắt Em Buồn, Tình Yêu Trong Mắt Một Người, Mắt Chân Dung Để Lại.
Hãy nghe Thanh Thúy – người hát nhạc ông thành công nhất, nói về ông trong một số báo tưởng niệm ở hải ngoại sau khi ông mất:
Anh và tôi không hẹn, nhưng đã gặp nhau trên con đường sống cho kiếp tằm. Anh trút tâm sự qua cung đàn, còn tôi qua tiếng hát. Trong khoảng thập niên 60, tên tuổi Anh và tôi như đã gắn liền với nhau: nhạc Trúc Phương, tiếng hát Thanh Thúy.
Như một định mệnh, tôi vào đời ca hát đúng vào thời điểm Anh say mê sáng tác, và tình cờ trở thành vị sứ giả đem tâm sự Anh đến mọi người, những người không nhiều thì ít cùng mang một tâm sự với Anh. Tâm sự về tuổi thơ mộng, về tình yêu dịu dàng của đôi lứa (dù trong bối cảnh đau thương của đất nước), về chuyện tình dở dang, về cuộc đời…
Đến khi nhạc phẩm “Nửa Đêm Ngoài Phố” ra đời, tên tuổi Anh đã vang dậy khắp nơi. Với thể điệu Rumba quen thuộc, diễn tả tâm trạng đau buồn của một người khi người yêu không đến nữa, “Nửa Đêm Ngoài Phố” đã ăn sâu vào lòng tất cả mọi người, từ những người lớn tuổi, cho đến lớp người trẻ lúc bấy giờ. Bất cứ buổi trình diễn nào, tôi cũng được yêu cầu trình bày “Nửa Đêm Ngoài Phố”, từ các sân khấu phòng trà, khiêu vũ trường cho đến Đại Nhạc Hội, từ các thôn làng nhỏ bé cho đến các tiền đồn hẻo lánh xa xôi. Ngoài ra, trong những chương trình phát thanh của đài Sài Gòn và đài tiếng nói Quân Đội, vào bất cứ chương trình nhạc nào cũng có bài này…
Cũng như “Nửa Đêm Ngoài Phố”, nhiều nhạc phẩm của Anh đã trở thành gần gũi với mọi người và đã giúp tôi leo cao hơn trên nấc thang sự nghiệp. Các bài này gồm có: Nửa Đêm Ngoài Phố, Buồn Trong Kỷ Niệm, Hai Lối Mộng, Chiều Cuối Tuần, Mưa Nửa Đêm, Tàu Đêm Năm Cũ, Hai Chuyến Tàu Đêm, Chuyện Chúng Mình, Đêm Tâm Sự, Hình Bóng Cũ, Đò Chiều, Chiều Làng Em…
Thế rồi, theo như Anh hơn một lần tâm sự, đường đời đã chia đôi chúng tôi ra hai ngả, hai hướng đi. Tôi đã giã từ sân khấu, giã từ lời ca tiếng nhạc, giã từ tất cả, theo chồng đi đến những phương trời xa. Còn Anh vào quân ngũ, và vẫn tiếp tục hăng say sáng tác, hầu hết những nhạc phẫm đều nói về đời người lính phong sương, xa nhà, xa thành phố, xa người em nhỏ hậu phương… (24 Giờ Phép, Bông Cỏ May, Kẻ Ở Miền Xa, Trên 4 Vùng Chiến Thuật…)
Vào thời điểm này, anh Duy Khánh, anh Chế Linh và Hoàng Oanh có lẽ là những ca sĩ đã hát nhạc của Anh rất nhiều.
Kiếp tằm chưa dứt, tôi đã trở lại với sân khấu, với ánh đèn màu. Trở lại với “Nửa Đêm Ngoài Phố”, với “Buồn Trong Kỷ Niệm”…
Rồi lại thêm một lần cuộc đời lại chia đôi chúng tôi ra hai ngả: Anh kẹt lại quê nhà, tôi sống đời lưu vong. Tôi đã tìm đủ mọi cách để liên lạc hầu mong gởi về những gói quà biếu Anh. Sự liên lạc trong những năm đầu thật khó khăn, cho mãi tới sau này, qua một số bạn bè và qua Trần Quốc Bảo, tôi mới có thể liên lạc thường hơn với Anh. Tuy nhiên, tôi rất lo lắng về bịnh tình Anh do Trần Quốc Bảo kể lại. Nhìn những tấm ảnh Anh gởi qua đăng trên Thế Giới Nghệ Sĩ, trông Anh gầy gò, đau yếu, tôi đã không sao cầm được nước mắt. Tôi đã bàn với Trần Quốc Bảo thực hiện một cuốn băng với toàn nhạc của Anh, hầu có thể giúp Anh phần nào trên phương diện vật chất lẫn tinh thần. Chợt nghe tin Anh đau nặng… Chợt nghe tin Anh qua đời…
Tổng hợp từ bài của Nguyễn Trung, Trần Quốc Bảo, ca sĩ Thanh Thúy
Nguồn: thanhthuy.me, báo Thế Giới Nghệ Sĩ