Thế giới đang bước vào đầu năm mới và thập kỷ mới với căn bệnh cúm Vũ Hán, coronavirus được lan truyền nhanh chóng và đang trở thành đại dịch toàn cầu. Việc này làm người ta liên tưởng tới căn bệnh dịch hạch khủng khiếp với tỉ lệ tử vong cao nhất trong lịch sử nhân loại, vào thế kỷ 14 nó đã từng làm giảm đi 1/3 dân số châu Âu. Người đầu tiên tìm ra loại vi khuẩn gây bệnh dịch hạch chính là bác sĩ Yersin, người đã gắn bó đời mình với đất nước Việt Nam hơn 100 năm trước.
Có lẽ người dân ở Sài Gòn hay Đà Lạt, Nha Trang, ai cũng đã từng đi trên con đường mang tên bác sĩ Yersin, nhưng không có nhiều người biết về cuộc đời của vị bác sĩ người Pháp có 50 năm nặng tình với nước Việt này.
“Hãy đến đây với tôi, ông sẽ biết nơi này thú vị như thế nào”, Alexandre Yersin viết về Nha Trang trong lá thư gửi cộng sự Emile Roux đầu thế kỷ 20.
“Thời tiết không nóng nhiều, cũng không lạnh lắm, một khung cảnh thanh bình tuyệt đối và có nhiều công việc cần làm”, vị bác sĩ tiếp tục. Khi ấy, Nha Trang không biết đến ông như Alexandre Yersin lẫy lừng thế giới, người đã đẩy lùi căn bệnh dịch hạch. Trong mắt họ, chỉ có một “ông Năm” tốt bụng, quý trẻ con và chữa bệnh miễn phí cho làng chài nghèo khổ. Quả thật, hiếm người Pháp nào được xứ Đông Dương yêu mến nhiều đến thế.
Sinh năm 1863 tại Aubonne, Vaud (Thụy Sĩ), Alexandre Yersin học y khoa tại Lausanne rồi chuyển sang Marburg (Đức), cuối cùng đến Paris (Pháp). Năm 1886, ông về làm việc tại phòng nghiên cứu Louis Pasteur theo lời mời của Emile Roux đồng thời tham gia phát triển huyết thanh chống bệnh dại. Năm 1888, ở tuổi 25, Yersin nhận bằng tiến sĩ. Ông gia nhập Viện Pasteur thành lập năm 1889, cùng với Roux khám phá ra độc tố bạch hầu. Tương lai xán lạn như được định sẵn cho nhà khoa học trẻ tuổi tài năng. Thế nhưng Yersin lại suy nghĩ khác. Đối với ông, “đời mà không đi thì còn gì là đời”. Louis Pasteur viết trong nhật ký ngày 21/10/1890: “Sự thôi thúc đi đến các quốc gia xa xôi cuốn hút Yersin, và không có cách nào giữ anh ở lại với chúng ta”.
Năm 1890, Yersin nghỉ việc ở Viện Pasteur, lên đường đến Đông Dương với vai trò là bác sĩ cho công ty Vận tải Hàng hải trên tuyến Sài Gòn – Manila và Sài Gòn – Hải Phòng. Năm 1891, lần đầu đặt chân đến Nha Trang, Yersin đã yêu mến mảnh đất này và quyết định lưu trú tại đây. Ông cho dựng nhà ở Xóm Cồn đồng thời mở phòng khám, trở thành bác sĩ người Âu đầu tiên hành nghề trong vùng.
Cũng trong thời gian này, ông đi dọc miền duyên hải đến Phan Rí và theo các con đường mòn vượt qua một ngọn đèo cao 1.200 mét gần Di Linh. Từ Di Linh ông định băng rừng đến Sài Gòn tìm ra con đường bộ nối liền Nha Trang với Sài Gòn, nhưng không kịp chuyến tàu đi Hải Phòng nên ông đành bỏ cuộc hành trình, xuống Phan Thiết dùng thuyền buồm ra Nha Trang.
Chuyến thám hiểm đầu tiên ngắn ngủi này đã giúp nhà thám hiểm 30 tuổi làm quen với những khó khăn trên miền núi vùng nhiệt đới – với gió núi – mưa rừng – chịu đựng những con vắt hút máu người – vượt qua những con suối nước chảy như thác đổ… lần tiếp xúc đầu tiên với núi rừng Tây Nguyên cũng đã kích thích Yersin ham muốn thực hiện những chuyến thám hiểm khác.
Ngày 29 tháng 3 năm 1892, từ Nha Trang ra Ninh Hòa, tiến thẳng vế hướng Tây đến Stung-treng trên bờ sông MêKông.
Nhờ sự giúp sức của Pasteur và bộ trưởng giáo dục Pháp; năm 1893, Yersin thực hiện nhiệm vụ thám hiểm vùng núi nằm giữ bờ biển miền Trung và sông Mêkông, vùng thượng nguồn sông Đồng Nai và Sêbangcan mà trước nay ít người biết đến. Rời Sài Gòn ông đã vượt qua thác Trị An đến Tánh Linh, vượt qua sông La Ngà đến Di Linh. Men theo một con đường mòn gần giống như con đường quốc lộ 20 hiện nay. Ngày 21 tháng 6 năm 1893, ông đến thác Prenn và sau đó đặt chân lên Lang Biang. Như vậy, Yersin chính là người đã khám phá ra Đà Lạt, vào lúc vùng đất này chỉ là cao nguyên hoang sơ của nhiều dân tộc thiểu số sinh sống.
“Trên đường đi, cao nguyên nhấp nhô cao từ 900 mét đến 1.200 mét khoảng từ 15 km đến 20 km trước khi đến chân núi. Tôi đứng trên một vùng hoàn toàn tơ trụi và cây cỏ. Đất đồi mấp mô khiến tôi cảm giác như đang đi rên một đại dương xao động vì những ngọn sóng khổng lồ. Đỉnh Lang Biang đứng sừng sững ở giữa như một hòn đảo và hình như ngày càng xa dần khi tôi đến gần. Dưới chỗ trũng, đất màu đen và đầy than bù. Những đàn nai lớn để yên cho chúng tôi đến gần vài trăm mét. Đàn nai vụt chạy ra xa rồi ngoái cổ lại tò mò nhìn chúng tôi.” – Yersin ghi lại hành trình của mình như vậy.
Cuối năm 1893, Yersin lại lên cao nguyên Lang Biang, thám hiểm cao nguyên Đắc Lắk – A Tô Pơ (Lào) và ngày 7 tháng 5 năm 1894 về Đà Nẵng.
Năm 1894, chính phủ Pháp cùng Viện Pasteur yêu cầu Yersin tới Hong Kong nghiên cứu bệnh dịch. Ở đó, trong túp lều nhỏ gần bệnh viện, người học trò xuất sắc của Pasteur khám phá ra công trình vĩ đại: mầm bệnh dịch hạch. Ông đặt tên cho trực khuẩn tìm thấy là Pasteurella Pestis nhằm tôn vinh người thầy vĩ đại trước khi giới khoa học đổi lại thành Yersinia Pestis.
Từ năm 1895 đến 1897, Yersin tiếp tục công trình về bệnh dịch hạch. Năm 1895, ông quay về Viện Pasteur Paris với Émile Roux, Albert Calmette và Amédée Borrel; chuẩn bị cho huyết thanh chống dịch hạch đầu tiên. Cũng trong năm này, Yersin lập một phòng thí nghiệm nhỏ tại Nha Trang phục vụ cho việc nghiên cứu. Năm 1898, Viện Pasteur Nha Trang được khánh thành.
Năm 1902, theo đề nghị của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, Yersin ra Hà Nội thành lập Đại học Y Đông Dương, nay là Đại học Y Hà Nội. Ông thiết kế giáo trình theo hình mẫu đại học Pháp: sáng khám bệnh ở bệnh viện, chiều dành cho lý thuyết; đích thân giảng dạy các giờ vật lý, hóa học, phẫu thuật. Yersin nhận xét lứa sinh viên y khoa đầu được đào tạo ở Đông Dương “rất chăm học, có những người xuất sắc ngang với các sinh viên giỏi nhất bên Pháp, ngay cả những người thông minh cũng học rất chăm, gần như không có ai lười biếng”. Hai năm sau, khi mọi thứ đã vào guồng, ông từ chức để dành trọn thì giờ nghiên cứu.
Quay về Nha Trang, Yersin sống gần gũi với dân làng. Người ta gọi ông là “Ông Năm” theo cấp bậc đại tá quân y. Vị bác sĩ lấy tiền khám bệnh của những kẻ máu mặt, giàu có nhưng hoàn toàn miễn phí với người nghèo, còn thường xuyên cho trẻ con kẹo hoặc tiền lẻ để mua quà. Trong thư gửi mẹ, Yersin tâm sự: “Mẹ hỏi con có thích ngành y không. Có và không. Con rất vui được chữa bệnh cho những ai đến nhờ, nhưng không muốn biến y học thành một nghề, nghĩa là con không bao giờ có thể đòi một bệnh nhân trả tiền vì đã điều trị cho họ. Con coi y học là thiên chức, là nhiệm vụ. Đòi chi phí từ bệnh nhân chẳng khác nào nói với họ rằng: tiền hay mạng sống”. Không chỉ vậy, Yersin trân trọng những đóng góp của các phụ tá người bản địa. Ông quý mến, quan tâm đến đời sống của họ, nhẫn nại tử tế và không bao giờ to tiếng thị oai.
Dành trọn tâm huyết cho khoa học, Yersin không màng đến danh vọng quyền lợi của bản thân. Ông nhận những giải thưởng cao quý trong sự ái ngại bởi “không hề thấy mình xứng đáng”, rồi quyết định dùng toàn bộ tiền từ số giải thưởng ấy vào các công trình nghiên cứu. Noel Bernard, cây bút đầu tiên viết tiểu sử Yersin nhận xét: “Chắc chắn rất hiếm người ít tư lợi như thế”. Mặc bộ đồ kaki bạc màu, đi chiếc xe đạp cũ kỹ, Ông Năm sống giản đơn, ngay thẳng, bình thản và chừng mực.
Năm 1934, Yersin được đề cử làm Giám đốc Danh dự của Viện Pasteur Paris kiêm ủy viên Ban Quản trị. Năm 1940, ông quay lại Pháp lần cuối cùng trước khi Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai bùng nổ.
Ngày 1/3/1943, Yersin qua đời tại nhà riêng ở Nha Trang. Di chúc của ông viết: “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương (cộng sự lâu năm) giữ tôi lại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Đám tang làm giản dị, không điếu văn”. Rất đông dân chúng đã đến để tiễn Ông Năm về nơi an nghỉ cuối cùng. Đoàn đưa tang dài hơn 3 km.
Trải qua gần nửa thế kỷ gắn bó với mảnh đất hình chữ S, bác sĩ Alexandre Yersin đã để lại dấu ấn sâu đậm khó có thể miêu tả hết. Ngoài y học, ông còn góp công lớn vào phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, thám hiểm, khí tượng. Tên ông được lấy đặt cho con đường ở Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang. Quần thể mộ Yersin ở Suối Dầu cùng thư viện Yersin ở Viện Pasteur Nha Trang được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, được xem là trường hợp duy nhất người nước ngoài duy nhất được cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia. Làng Tân Xương ở Suối Dầu thờ cúng ông như một thành hoàng, một vị Bồ Tát. Yersin đã đến đây bằng tấm lòng chân thành và sẽ còn lưu mãi trong ký ức Việt Nam.
Đường Yersin trước 75 ở Saigon
Bác sĩ Yersin là một trong số ít người Pháp được đặt tên đường từ thời kỳ Pháp thuộc cho đến nay. Năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm đã Việt hóa trên 90% đường sá Sài Gòn, nhưng vài tên Pháp vẫn còn tồn tại là: Pasteur, Alexandre De Rhode, Calmette và Yersin. Trên con đường Yersin có khu Dân Sinh (nay là chợ Dân Sinh) nổi tiếng từ trước năm 1975 đến nay. Dân Sinh chính là cái tên được phiên âm tiếng Việt từ tên Yersin.
Về vai trò của bác sĩ Yersin trong lịch sử hình thành của vùng đất du lịch nổi tiếng Đà Lạt. Khi toàn quyền Pháp ở Đông Dương lúc đó là Paul Doumer muốn xây dựng một nơi nghỉ dưỡng cho người Pháp, Yersin đã đề nghị nên chọn Đankia – cách Đà Lạt hơn 10 km về phía Tây Bắc, nơi mà trước đó ông đã đặt chân đến lần đầu sau những cuộc thám hiểm.
Năm 1899, bác sĩ Yersin đã tháp tùng toàn quyền Paul Doumer lên Đà Lạt. Sau khi quan sát tại chỗ, Paul Doumer không chọn Đankia làm nơi nghỉ dưỡng nhưng chọn vị trí Đà Lạt hiện nay theo đề nghị của bác sĩ Emile Tardif vì:
– Đà Lạt ở độ cao hơn Đankia.
– Độ dốc của Đà Lạt thoai thoải – không khí của Đà Lạt hợp vệ sinh hơn ở Đankia – có những ngọn đồi nhỏ cách nhau bằng những thung lũng lầy lội.
– Không khí ở Đà Lạt mát lạnh và ít ẩm hơn ở Đankia vì Đankia nằm gần đỉnh Lang Biang – sườn núi hứng gió ẩm – nhận lượng mưa nhiều hơn – sương mú nhiều hơn (đến 10h sáng sương mới tan).
– Về thực vật: phía Đankia chỉ toàn đồi nhỏ, trong khi Đà Lạt gần rừng thông, không khí vừa mát mẻ vừa thơm ngát hương thông.
– Về giao thông vận tải: Đà Lạt thuận tiện hơn Đankia.
Ngày 28 tháng 6 năm 1935, trường trung học Yersin được khánh thành ở Đà Lạt. Yersin trở về Đà Lạt lần cuối cùng trước khi mất. Nhân dịp này, đáp lại lời phát biểu của moat học sinh, ông đã trình bày cảm tưởng khi đặt chân lên cao nguyên Lang Biang: “Không khí mát mẻ đã làm tôi quên đi mệt nhọc và tôi nhớ lại niềm vui được chạy hết tốc lực lên xuống những ngọn đồi như một học sinh trung học trẻ tuổi.”
Tổng hợp